top of page
Hung Tran
Oct 18, 2024
Chúa có thể nhận định về chúng ta như sau đây không: “Ngươi là con yêu dấu của Ta, đẹp lòng Ta mọi đường”?
BẠN LÀ AI ?
Bài 1: NGHE - NHÌN - LÀM: BẠN ĐANG Ở NHÓM NÀO?
17. Ngày kia, Chúa Giê-xu đang giảng dạy, những người Pha-ri-si và các giáo sư luật từ các miền Ga-li-lê, Giu-đê và Giê-ru-sa-lem đến đều ngồi ở đó. Chúa dùng quyền năng Đức Chúa Trời chữa lành các tật bệnh.
18. Có mấy người khiêng một người bại trên cáng đến, tìm cách đem vào đặt trước mặt Chúa. 19. Nhưng vì quần chúng đông đảo nên họ không tìm được lối vào. Họ leo lên nóc nhà, rồi qua mái dòng người bại nằm trên cáng xuống chính giữa, ngay trước mặt Chúa Giê-xu.
20. Thấy niềm tin của họ, Chúa bảo: “Này anh, tội anh đã được tha.” 21. Các thầy thông giáo và người Pha-ri-si nghĩ thầm: “Ông này là ai mà dám lăng mạ thánh thần như thế? Ai có quyền tha tội ngoại trừ một mình Đức Chúa Trời?” 22. Biết ý tưởng của họ, Chúa Giê-xu hỏi: “Sao các ông suy nghĩ trong lòng như vậy? 23. Nói: ‘Tội anh đã được tha!’ hoặc nói: ‘Hãy đứng dậy mà đi!’, điều nào dễ hơn? 24. Nhưng để các ông biết rằng trên trần gian này Con Người có quyền tha tội”, Chúa nói với người bại: “Tôi bảo anh, hãy đứng dậy, vác cáng mà đi về nhà!” 25. Ngay lúc ấy, người bại đứng dậy trước mặt họ, vác cáng anh đã nằm rồi đi về nhà, vừa đi vừa tôn vinh Đức Chúa Trời... 26. Mọi người đều sửng sốt, tôn vinh Đức Chúa Trời. Họ kinh ngạc, nói với nhau: “Hôm nay, chúng ta đã chứng kiến một việc kỳ diệu.”
(LuLc 5:17-26)
(Mat Mt 9:1-8; Mac Mc 2:1-12)
Nếu được mời đầu quân tập luyện để trở thành cầu thủ cho một đội bóng, chúng ta có nghĩ ngợi về tên tuổi của đội bóng mình sắp gia nhập không? Chẳng lẽ đội nào cũng được? Tìm việc làm, được tuyển vào trong một công ty, chúng ta có quan tâm đến danh tiếng của công ty đó không? Chẳng lẽ công ty tốt hay xấu cũng được?
Chúng ta có băn khoăn khi tham gia vào một cộng đồng Cơ-đốc, vào một ban ngành trong Hội thánh không? Chẳng lẽ chúng ta chẳng suy nghĩ gì cả. Hội thánh tiến hay lùi chúng ta chẳng hề quan tâm đến. Ban ngành mạnh hoặc yếu cũng chẳng ăn thua gì đến chúng ta. Chuyện của Hội thánh thì mặc kệ, đến đâu hay đến đó!
Trong gia đình chúng ta có sống đẹp lòng Chúa không? Hoặc dù biết là chúng ta đang sống sai ý Chúa, chúng ta cũng mặc kệ để sự việc cứ diễn tiến cứ trôi theo năm tháng?
Đây có phải là vấn đề của hội thánh, của ban ngành, của gia đình chúng ta không?
Trong phân đoạn Kinh Thánh, ta thấy có ba nhóm người.
(1) Nhóm ngồi trong nhà. Có vị trí gần Chúa nhất.
(2) Nhóm đứng ở ngoài. Xa Chúa hơn một chút.
(3) Nhóm ở ngoài cùng. Xa Chúa nhất.
1. Nhóm ngồi.
Những từ ngữ liên hệ đến nhóm ngồi.
(Người Pha-ri-si, giáo sư luật, từ... đến..., ở trong nhà, nghe giảng, thắc mắc, Chúa biết ý tưởng của họ.)
-Nhóm ngồi là nhóm sướng nhất, họ là những người Pha-ri-si và các giáo sư luật, họ được kính trọng và được chủ nhà mời vào trong để ngồi.
-Ngồi trong căn nhà đó để làm gì? Để nghe Chúa Giê-xu giảng và để nhìn thấy việc Chúa Giê-xu làm.
-Những người trong nhóm ngồi có lợi thế hơn hai nhóm kia ở những điểm nào? Họ là những người gần Chúa Giê-xu nhất, họ nghe rõ nhất, thấy rõ nhất.
-Nhóm ngồi trong đoạn Kinh Thánh có nhược điểm nào? Họ chỉ chú trọng đến việc nghe Chúa nói gì, nhìn xem Chúa làm gì để thắc mắc, để khen chê, hoặc bắt bẻ, chỉ trích Chúa Giê-xu. Mục đích của họ khi lắng nghe và chứng kiến việc Chúa nói và làm không phải là để nhận, để làm theo hoặc là để tin những điều Chúa nói và làm.
-Nhóm ngồi cũng là nhóm không giúp đỡ việc đưa người bại đến với Chúa. Họ ngồi chật kín nhà.
Ngày hôm nay trong Hội thánh rất có nhiều người thuộc về nhóm ngồi. Họ đến nhà thờ, ngồi đó để nghe giảng và mong thấy việc mới lạ. Đi nhà thờ là tốt, muốn nghe giảng, muốn thấy việc mới lạ là tốt, nhưng nếu mục đích chỉ là để phê bình, bắt bí, chê bai thì chưa hẳn là tốt. Xem chừng họ đến gần Chúa lắm nhưng vì mục đích đến với Chúa chỉ là phá hoại, cho nên thay vì gần Chúa lại hoá ra xa Chúa; thay vì yêu Chúa hơn lại trở thành ghét Chúa; thay vì tiếp nhận lời Chúa lại thắc mắc, bắt bẻ Chúa; thay vì tin lại trở thành vô tín.
2. Nhóm đứng.
Những từ ngữ liên hệ đến nhóm đứng: dân chúng, đông đảo, chứng kiến, sửng sốt, kinh ngạc, nói với nhau, tôn vinh Đức Chúa Trời.
-Đây là nhóm rất đông đảo. Không có đủ chỗ cho họ ngồi. Họ phải đứng.
-Bạn nghĩ gì về nhóm đứng? Đứng đó để làm gì? - Để nghe, để thấy. Họ chiếm đa số, họ không bị lệ thuộc. Nếu ở trong nhóm đứng mà thật sự muốn nghe và muốn thấy thì sẽ cực khổ hơn người trong nhóm ngồi rất nhiều. Vì nhóm đứng thật là chật chội, nóng nực, ồn ào, mất trật tự vì ai muốn vào thì lấn vào, ai muốn ra thì cứ chen ra. Ngồi trong nhà còn có thể im lặng lắng nghe, nhưng ở ngoài nhà thì ai nấy đều có thể nói chuyện, cãi vã…
-Đối với một số người trong nhóm đứng, khi không nghe rõ, không thấy rõ, thì họ muốn đi đâu, muốn làm gì đều tùy nghi tùy thích, không bị ràng buộc gì cả.
-Nhóm đứng cũng là nhóm cản trở người khác, vì họ đứng chật cả lối đi. Nhóm đứng cản trở người thấp - như ông Xa-chê: không thấy được Chúa; cản trở những người bạn của người bại khi họ muốn đem người bại đến với Chúa.
Ngày nay trong Hội thánh cũng đầy dẫy những người đóng vai khán giả. Mục đích khi đến Hội thánh không phải là để phục vụ Chúa hoặc người khác. Đôi khi họ như những khán giả đi xem đá banh hoặc đi xem ca nhạc. Thấy hay thì khen, dở thì chê. Họ chỉ là những người chứng kiến chớ không phải là người trong cuộc cho nên họ không gắn bó, không quan tâm đến người nào khác, không có hy sinh. Họ đến với Hội thánh rất dễ và bỏ đi cũng rất dễ; thấy hợp thì đến nghe; thấy không hợp thì thôi không đến nữa.
3. Nhóm làm.
Những từ ngữ liên hệ đến nhóm làm: mấy người, khiêng, tìm cách, leo lên nóc nhà, dòng người bại xuống, Chúa thấy niềm tin của họ.
-Nhóm làm là nhóm thiểu số, không mấy ai nghe tiếng nói của họ, không mấy ai nhìn thấy họ. Vì họ là những người đang bận bịu với công tác. Tuy nhiên Kinh Thánh cho chúng ta biết “Chúa Giê-xu thấy đức tin của họ”. Họ đã làm gì, làm thế nào Chúa lại thấy đức tin của họ?
-Dù làm ít người nhất, nhưng họ biết quan tâm đến người khác. Họ quan tâm đến nhu cầu của một người bại liệt. Họ quan tâm rồi bắt tay hành động, chớ không phải biết nhu cầu rồi làm lơ bỏ đi.
Sự quan tâm sẽ chẳng đi đến đâu nếu không có một quyết định hành động đáp ứng nhu cầu của người mình quan tâm.
Nhưng làm việc gì cũng phải trả giá.
Giá đó là: Thì giờ - Sức lực - Khả năng. Bạn có sẵn sàng hy sinh thì giờ, hy sinh công việc của mình cho người mà bạn quan tâm không? Bạn có bỏ sức lực ra để khiêng người đang cần đến cho Chúa không? Bạn có sẵn sàng hợp tác với người khác để giúp người đang cần không? Bạn có suy nghĩ cách nào, có sáng kiến gì không, hoặc thụ động chỉ ngồi đó đợi. . . Nói chung có nỗ lực, hết lòng với công việc không?
Trong câu chuyện này, chúng ta không thấy có chữ quan tâm, không có chữ yêu thương nào cả. Nhưng chúng ta thấy rõ sự quan tâm và hành động yêu thương của nhóm làm.
• Chúa Giê-xu nhìn thấy đức tin của họ.
Còn những người ngồi gần Ngài, nghe Ngài, không có đức tin gì cả nên Ngài không thấy đức tin của họ. Những người đứng vây quanh nhà, cố gắng lắng nghe, tìm cách nhìn thấy Chúa nhưng Ngài cũng không thấy đức tin nơi họ. Còn một nhóm vài người đang cố gắng giúp một người bại liệt, Chúa lại thấy đức tin của họ.
-Phải chăng những người làm là những người không cần nghe lời Chúa, cũng chẳng muốn thấy việc Chúa? Qua câu chuyện này chúng ta thấy sự thật không phải như vậy.
Những người làm là những người đã nghe lời Chúa, đã thấy việc Chúa rồi. Không phải nghe như người Pha-ri-si nghe, không phải thấy như đoàn dân đông thấy.
Họ nghe Chúa Giê-xu nói với bạn của mình: “Tội con đã được tha”, và “hãy đứng dậy vác nệm mà đi!”.
Họ được thấy Chúa chữa bệnh cho bạn mình, được thấy bạn mình lành bệnh bước đi.
Khi đem bạn mình đến cho Chúa, họ chỉ nghĩ đến một điều là: Chúa sẽ chữa bệnh bại liệt cho bạn mình, bây giờ họ biết hai điều: Chúa vừa chữa bệnh tâm linh qua việc Ngài tha tội và chữa bệnh trong cơ thể.
Nhờ làm việc với đức tin, nhờ hy sinh với đức tin, nhờ yêu thương với đức tin mà họ được nghe lời Chúa và thấy việc Chúa làm.
-Việc họ làm có phải là việc ‘long trời lở đất’, ‘kinh thiên động địa’ không? Có lẽ đối với người bại, các bạn của ông ta đã làm một việc lớn lao cho ông, nhưng đối với mọi người xa lạ ngoài cuộc, có thể không ai nhớ tên họ, cũng chẳng ai khen họ vì cho là việc nhỏ.
Ngày nay trong Hội thánh nhiều người nghĩ đến những chuyện cao xa, to tát, nghĩ đến những con số hàng ngàn hàng vạn. Nhưng ít ai chịu bắt đầu với những con số lẻ tẻ. Nhiều người muốn làm sứ giả phục hưng, làm tiên tri với những lời giảng dạy đanh thép của khải tượng. Nhưng ít ai chịu làm một cô Ru-tơ, đi mót từng gié lúa nhỏ. Hãy học tập gương những người bạn của người bại.
4. Suy nghĩ
-Bạn muốn gia nhập nhóm nào? Nhóm ngồi, nhóm đứng hoặc nhóm làm?
-Thực trạng Hội thánh, ban ngành, nhóm học Kinh Thánh, gia đình Cơ-đốc của chúng ta hiện nay ra sao?
Phải chăng trong Hội thánh ngày hôm nay có nhiều người nghe lời Chúa, thấy công việc Chúa nhưng ít người chịu làm việc Chúa?
-Phải chăng cũng có nhiều người nghe giảng để phê bình chỉ trích, bắt bẻ mà thôi?
-Theo bạn một Cơ-đốc nhân quân bình cần nghe - cần nhìn - hoặc cần làm? Phải chăng chỉ cần làm?
Nghe lời Chúa - Nhìn việc Chúa làm - Làm công việc Chúa, cả ba đều cần thiết, bạn có quân bình trong 3 vấn đề này không?
Dù nghe, nhìn hoặc làm, Chúa có nhìn thấy niềm tin của bạn không?
Làm cách nào để thể hiện niềm tin cách cụ thể?
-Một cộng đồng Cơ-đốc quân bình cần thể hiện ba phương diện: Nghe Lời Chúa, thấy việc Chúa làm và làm công việc Chúa.
Tuy nhiên rất nhiều người chỉ thích nghe giảng, nghe làm chứng, khi có một diễn giả mới thì hăng hái đi nghe, cũng vui mừng khi nghe thuật lại hoặc nghe làm chứng lại những việc Chúa làm, cũng lớn tiếng cảm tạ Chúa vì quyền năng của Ngài. Nhưng sau đó là gì? Họ không làm gì cả. Họ thấy công việc của Chúa mà không bao giờ chịu làm gì cả. Cho nên chúng ta chẳng lạ gì khi ngày hôm nay rất nhiều người đến nhà thờ, nhưng rất ít người làm việc.
(Dầu vậy vẫn phải xét lại xem số ít người đang làm việc đây có đúng là họ đang làm việc cho Chúa hay không. Vì nhiều người làm việc cho Chúa trong tinh thần làm việc văn phòng, làm việc cho công ty...)
-Chúng ta phải làm gì đây?
Chúng ta đã nghe chưa? Nghe rất nhiều. Nhưng khi nghe có lòng tin không? Có muốn làm theo không? Hoặc chỉ nghe, ghi vào trang giấy làm ‘khuôn vàng thước ngọc’, vẽ vào bức tranh treo lên tường, nhưng không bao giờ tin để rồi làm theo cả.
Chúng ta có chứng kiến việc Chúa làm chưa? Đã chứng kiến. Nhờ đâu chúng ta chứng kiến? Phải có những người đã hành động với đức tin, qua đó chúng ta mới chứng kiến.
Bây giờ chúng ta phải tự hỏi, vì sao chúng ta chưa làm gì cả?
-Phải chăng chúng ta theo Chúa với ý định sai lầm? Theo để nghe và để thấy mà thôi. Hãy thưa với Chúa về tình trạng đó, hãy thay đổi cách suy nghĩ.
-Phải chăng chúng ta thiếu quan tâm đến nhu cầu của những người chung quanh chúng ta? Hãy ăn năn, xin Chúa giúp chúng ta quan tâm đến những người quanh chúng ta.
-Phải chăng chúng ta không dám trả giá, không muốn hy sinh thì giờ, không muốn hy sinh công việc cho nhu cầu của anh em chúng ta? Hãy ăn năn, hãy dành thì giờ, sức lực, khả năng cho anh em chúng ta.
-Phải chăng chúng ta chưa hợp tác với nhau? Mỗi người theo ý mình? Xin Chúa tha tội, hãy tha thứ cho nhau, phục tùng nhau để có thể hợp tác với nhau.
-Phải chăng chúng ta chưa có sáng kiến gì cả? Hãy hành động, dám đối diện với trở lực, sẽ có sáng kiến.
-Phải chăng chúng ta chưa có đức tin? Hãy cầu nguyện xin Chúa khiến cho chúng ta tin nếu chúng ta chưa tin; nếu đã tin rồi thì đức tin sẽ được mạnh mẽ hơn.
-Người hành động (làm) là người nhận được phước hạnh lớn lao: được nghe tiếng Chúa phán, được thấy việc Chúa làm. Chúa hài lòng, người được giúp đỡ vui mừng, rồi người hành động cũng thỏa lòng. Người Cơ-đốc sống quân bình làm cho Chúa vui, người khác vui và bản thân cũng vui.
Bài 2: BÀN TAY ĐẦY TỚ
14. Lúc ấy, Nước Trời cũng giống như một người kia muốn đi xa nên gọi các đầy tớ lại và giao tài sản của mình cho họ. 15. Ông giao cho người này năm nén bạc, người kia hai nén, người nọ một nén, mỗi người tuỳ theo khả năng của mình, rồi lên đường. Lập tức, 16. người nhận năm nén ra đi, dùng tiền kinh doanh và làm lợi được năm nén khác. 17. Người nhận hai nén cũng vậy, làm lợi được hai nén khác. 18. Nhưng người nhận một nén thì đi mất, đào đất chôn giấu số bạc của chủ.
19. Sau một thời gian dài, chủ các đầy tớ này trở về, tính sổ với họ. 20. Người đã nhận năm nén bạc đến, đem thêm năm nén khác, và trình: “Thưa chủ, chủ đã giao cho tôi năm nén bạc; đây, tôi đã làm lợi được năm nén khác.” 21. Chủ nói với người: “Tốt lắm, anh là đầy tớ siêng năng và trung thành. Anh đã trung thành hoàn tất việc nhỏ, tôi sẽ giao cho anh việc lớn. Mời anh vào dự tiệc vui với chủ anh!” 22. Người nhận hai nén bạc cũng đến, và trình: “Thưa chủ, chủ đã giao cho tôi hai nén bạc; đây, tôi đã làm lợi được hai nén khác!” 23. Chủ nói với người: “Tốt lắm, anh là đầy tớ siêng năng và trung thành. Anh đã trung thành hoàn tất việc nhỏ, tôi sẽ giao cho anh việc lớn. Mời anh vào dự tiệc vui với chủ anh!” 24. Người nhận một nén bạc cũng đến, và trình: “Thưa chủ, tôi biết chủ là một người nghiêm khắc, gặt chỗ chủ không gieo, thu chỗ chủ không vãi, 25. vì vậy tôi sợ, nên đã đi giấu nén bạc của chủ dưới đất; đây, chủ cầm nén bạc của chủ.” 26. Nhưng chủ trả lời: “Hỡi tên đầy tớ hư hỏng và biếng nhác! Anh đã biết là tôi gặt chỗ tôi không gieo, thu chỗ tôi không vãi, phải không? 27. Vậy thì lẽ ra anh phải đem bạc của tôi đến những tay đổi bạc, rồi khi về thì tôi sẽ thu lại cả vốn lẫn lời. 28. Hãy lấy nén bạc của hắn và cho người có mười nén! 29. Vì ai đã có sẽ được cho thêm và sẽ được dư dật; còn ai không có thì ngay cả cái mình đang có cũng bị lấy mất! 30. Còn tên đầy tớ vô dụng này, hãy quăng nó ra ngoài nơi tối tăm, chỗ có khóc lóc và nghiến răng!
(Mat Mt 25:14-30)
1. Trọng trách.
Khi ba người đầy tớ được gọi đến trước mặt chủ và được giao cho năm nén bạc, hai nén bạc và một nén bạc, họ nghĩ gì? Nếu là một trong ba người đó, bạn muốn nhận được mấy nén bạc? Khi nhận bạc xong bạn nghĩ gì và làm gì?
(1) Trước hết, cả ba người đầy tớ đều nhận thức họ là người được tin cậy. Được chủ tin cậy, nên vui hay buồn? Được tin cậy vì tánh hạnh tốt, được tin cậy vì có khả năng làm được. Khi được tin cậy lẽ ra phải vui mừng và tự hào, tuy nhiên nhiều người thay vì nói: ‘Tôi được tin cậy’, Tôi được giao phó’ thì lại nói: ‘Tôi bị giao cho việc này, bị bắt làm việc kia’ hoặc ‘bị dính vào việc này, bị kẹt vào việc kia’; khi nói là ‘bị’ thì dường như không vui, không hào hứng gì cả.
(2) Thứ nhì, cả ba người đầy tớ đều nhận thức họ là người được giao phó tài sản. Chủ giao tài sản cho họ và họ là những người tiếp nhận tài sản của chủ. Ý thức mình được giao cho cái gì đó, một điều gì đó, một việc gì đó là điều rất quan trọng. Vì nhiều người được giao cho công việc này, trách nhiệm kia, ân tứ nọ, nhưng không ý thức mình là người được nhận, được giao phó, cho nên không biết ơn, không có trách nhiệm, muốn làm gì thì làm theo ý mình…
Khách quan mà nhìn có thể có người cho rằng người nhận năm nén là được nhận nhiều, người nhận hai nén là được nhận vừa phải, và người nhận một nén là được nhận quá ít. Nhưng thật ra mỗi người được giao đều phù hợp với khả năng và trình độ của họ. Nhiều người than van “Sao tôi có quá nhiều trách nhiệm?” còn người chỉ có một nén bạc lại cho là nhỏ quá, ít quá, lại nói: “Sao chẳng giao cho tôi trách nhiệm gì đáng giá cả?” Chủ giao cho người này bao nhiêu, giao cho người kia bao nhiêu, đó là quyền và quyết định của chủ. Nhất là trong cái nhìn của chủ, người nhận năm nén bạc vẫn có thể là ‘việc nhỏ’ (câu 21), mà người nhận hai nén cũng là ‘việc nhỏ’ (câu 23).
(3) Nhờ ý thức mình được chủ tin cậy, được chủ giao phó tài sản mấy người đầy tớ nhận thức họ là người có giá trị trước mặt chủ. Người ngoài cuộc có thể nhìn vào ba người đầy tớ và coi họ không ra gì. Bản thân người đầy tớ cũng có thể không nhìn thấy giá trị của mình. Có người nói không có người này thì có người khác. Mất người này thì còn người kia, lo gì. Con người thường dùng chữ ‘thân phận’, ‘số kiếp’ để nói về giá trị không ra gì của mình. Không rõ mấy đầy tớ được chủ giao phó tài sản có than thở về ‘phận tôi đòi’ của họ không? Đối với chủ, ba người đầy tớ này đáng tin cậy, đáng được giao phó tài sản. Họ là những người rất có giá trị, rất cần cho chủ. Ai trong chúng ta cũng nhớ câu chuyện thật về một sĩ quan người La-mã yêu thương đầy tớ của ông đến nỗi nhờ những bậc trưởng lão Do-thái giới thiệu ông với Chúa Giê-xu và đích thân ông đến xin Ngài chữa bệnh cho đầy tớ của mình.
Vấn đề đặt ra cho ba người đầy tớ là: Làm sao khẳng định được mình là những đầy tớ có giá trị, để chủ tiếp tục tin cậy và giao tài sản cho.
(4) Ba người đầy tớ cũng nhận thức họ là người đang có cơ hội, chủ đang đặt hy vọng vào họ. Nhiều đầy tớ khác không được nhận gì cả từ nơi chủ, chỉ người này được nhận thôi. Những người làm việc với các công ty thường dùng từ ngữ vận may, hoặc dịp tốt khi nói về trường hợp người lãnh đạo giao phó cho họ một công việc qua đó họ có thể thi thố tài năng để chứng minh họ là người như thế nào đối với công ty. Và vì cơ hội chỉ đến có một lần cho nên người ta nắm bắt lấy cơ hội, tận dụng cơ hội ngay.
Con người luôn luôn đi tìm cơ may. Có những hoàn cảnh con người tưởng là sẽ chẳng thể nào có cơ hội, nhưng Đức Chúa Trời vẫn đem cơ hội đến cho con người. Ông E-xơ-ra, cô Ê-xơ-tê, ông Đa-ni-ên và các bạn của ông là những người thuộc thời kỳ bị lưu đày. Họ sống vào thời kỳ xa quê hương, lớn lên trong một nơi xa lạ và rất dễ lạc lối. Trong giai đoạn khó khăn đó họ vẫn nhận thức được tình yêu thương và cơ hội Đức Chúa Trời dành cho họ để sống vì danh Chúa và vì dân của Ngài.
(5) Ba người đầy tớ khi nhận tài sản của chủ họ phải là người nhận biết công việc của họ là gì. Thật khó tưởng tượng một đầy tớ nhận sự uỷ thác của chủ mà lại không biết công việc của mình là gì. Không một người chủ nào lại giao vốn liếng cho những đầy tớ không biết phải làm gì.
Khi ông Sam-sôn lớn lên, nhận ra ‘tài sản’ quý giá Đức Chúa Trời giao cho, chắc chắn ông ý thức được giá trị của mình trước mặt Chúa, chắc chắn ông cũng ý thức được rằng một người quan xét là phải làm những công việc gì. Ông Môi-se khi trưởng thành, dù là con nuôi của công chúa Ai-cập nhưng ông cũng nhận ra giá trị thật của mình trước mặt Đức Chúa Trời.
Nhận biết công việc của mình chỉ là bước đầu chớ không phải là bước cuối cùng của người đầy tớ.
2. Thời gian.
Từ ngữ diễn tả thời gian liên quan đến người đầy tớ là từ ‘lập tức’ (câu 15). Từ ngữ này cho thấy người đầy tớ biết tận dụng thời gian , anh ta không chần chờ, không trì hoãn. Với anh ta thời hiện tại rất quan trọng, cơ hội là ngay bây giờ chớ không phải là mai kia hay mốt nọ.
Dù anh có sử dụng thời gian hoặc không thì thời gian vẫn trôi qua từng ngày từng giờ từng phút từng giây. Cho nên người đầy tớ biết tận dụng thì giờ là người biết ‘lập tức’. Sách Châm ngôn có nói về người tận dụng thì giờ từng chút từng chút một. Nhưng anh ta ‘tận dụng thì giờ’ (một chút, một chút, một chút) cho việc ngủ và nghỉ ngơi một cách sai lầm.
Người biết tận dụng thì giờ là người nhận biết giá trị của thì giờ dù “sau một thời gian dài” chủ mới trở về (câu 19). Chúng ta nên nhớ từ ngữ ‘lập tức’ là từ ngữ dành cho đầy tớ, còn từ ngữ ‘sau một thời gian dài’ là từ ngữ dành chủ và dành cho người đầy tớ muốn về sau ôn lại quá khứ mà không hối hận. LuLc 12:44 ghi lại suy nghĩ của người đầy tớ bất trung và dại dột là “chủ ta còn lâu mới về”. Chính vì suy nghĩ ‘còn lâu mới về’ mà người đầy tớ đã sử dụng thì giờ một cách sai lầm.
Người quản gia cần ý thức giới hạn của thời gian . Anh ta nhận thức rằng thời gian chủ dành cho mình dù ngắn hạn hoặc dài hạn thì vẫn có giới hạn, sẽ cạn, sẽ hết. Trong thời gian có hiện tại, quá khứ và tương lai. Trong ẩn dụ này cũng có ba loại thời gian đó. Cách bạn sử dụng thì giờ trong hiện tại giữ vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng tương lai của chính bạn.
Từ ngữ ‘lập tức’ mô tả cách sử dụng thì giờ trong hiện tại của người đầy tớ nhận năm nén và người đầy tớ nhận hai nén bạc. Vì hiện tại biết lo sử dụng và tận dụng thì giờ một cách hữu ích, cho nên khi thời gian trôi qua, khi tiến đến tương lai, là lúc ôn lại quá khứ, đánh giá thành quả, thưa trình… người đầy tớ không thấy uổng, không thấy tiếc nuối, và không sợ hãi trước mặt chủ. Ngược lại, nếu chúng ta không tận dụng thì giờ, sau một thời gian dài trôi qua, khi ôn lại quá khứ chúng ta sẽ tiếc nuối, hối hận và sợ hãi. Cho nên ngay trong hiện tại chúng ta lo xây dựng cho tương lai và chuẩn bị ôn lại quá khứ.
Có một câu nói rất chí lý: “Ta không thể thay đổi quá khứ”, nhưng nếu hiện tại chưa trôi qua thì chúng ta vẫn có thể thay đổi quá khứ.
Thời gian gắn liền với cách tổ chức đời sống của con người. Cùng một thời gian đó, đối với người này có ý nghĩa, đối với người khác lại vô nghĩa; người này làm được nhiều việc, còn người khác không làm được gì cả; vì một người biết tổ chức đời sống còn người kia thì không tổ chức sắp xếp đời sống gì cả.
3. Thực hiện.
Theo phân đoạn Kinh Thánh này, có hai cách thực hiện những việc chủ giao cho. Cách thứ nhất là cách của người đầy tớ nhận năm nén bạc và người đầy tớ nhận hai nén bạc: Hai anh này ra đi, dùng tiền kinh doanh và làm lợi ra (câu 16). Cách thứ nhì là cách của người đầy tớ nhận một nén bạc: Anh ta đi mất, đào đất chôn giấu số bạc của chủ (câu 18).
Khẩu hiệu và chương trình hành động của đầy tớ là ‘ra đi’. Đầy tớ phải là người có tinh thần ‘ra đi’, phải là con người dấn thân, con người hành động tích cực; hoàn toàn trái ngược với con người ‘đi mất’. Một người ‘ra đi’, một người ‘đi mất’ đối với những điều chủ giao cho mình. Nói một cách cụ thể, nếu là trên thương trường, thì một người dấn thân vào, còn một người biến đi đâu mất.
Nhiều đầy tớ không muốn ‘ra đi’ mà chỉ muốn ‘ngồi lại’, vì ra đi thì mệt tay mệt chân, còn ngồi lại thì chỉ mệt mồm. Điều đặc biệt trong ẩn dụ này là cả ba người đầy tớ đều không có chức vụ, cho nên không ai có thể ngồi lại để làm giám đốc. Nhiều chương trình và ý định của Chủ đã không thực hiện được chỉ vì có những đầy tớ không chịu ra đi. Họ cố thủ trong ‘bàn giấy’, trong nhà thờ, trong cái tháp ngà, hoặc ‘biến mất’ trong xã hội.
Đầy tớ là người dấn thân tích cực đối với công việc của chủ. Muốn như vậy đầy tớ phải từ bỏ những công việc không thuộc về phạm vi của chủ giao, thậm chí còn phải từ bỏ công việc của bản thân. Còn người đầy tớ ‘đi mất’ là loại đầy tớ có thái độ tiêu cực đối với công việc của chủ; anh ta biến mất đối với công việc chủ giao cho, nhưng biết đâu anh ta lại có mặt và rất tích cực đối với công việc riêng tư hoặc đối với những công việc chủ không bảo anh ta làm.
Đầy tớ là người làm công việc của chủ, làm việc chủ bảo làm chứ không phải làm công việc của bản thân, hoặc làm những việc chủ không bảo làm. Ngày hôm nay bên cạnh những đầy tớ ‘đi mất’ đối với công việc chủ giao cũng có những đầy tớ lăng xăng làm rất nhiều việc mà chủ không bảo làm. Nhìn họ tưởng chừng họ có ‘ra đi’, nhưng sự dấn thân và tích cực của họ là theo ý riêng chớ không phải theo ý Chủ.
Công việc của đầy tớ là ‘kinh doanh’. Đây là một công việc thực thụ và nghiêm túc. Công việc đòi hỏi sự ràng buộc, phương pháp và tính chuyên nghiệp. Công việc ‘kinh doanh’ này có thành có bại chớ không phải là loại sinh hoạt có tính cách đi tìm thú vui tao nhã, hoặc là đi du lịch thưởng ngoạn phong cảnh…
Chúng ta thường nghe nói câu ‘làm chơi ăn thiệt’, không cần nỗ lực, chẳng có chuyên nghiệp cũng có thể gặt hái thành quả to lớn. Không thể có trường hợp này trong phạm vi thuộc linh. Thí dụ chúng ta ‘truyền giảng theo kiểu làm chơi’ mà đòi ‘ăn thiệt’ thì thật là khôi hài.
Rồi chúng ta cũng từng chứng kiến biết bao nhiêu người lắm tiền nhiều của đi kinh doanh, nhưng chỉ kinh doanh cho có, cho vui thôi, kết quả chắc chắn là thất bại, tuy nhiên họ vẫn sống nhàn nhã. Vì sao? Vì họ kinh doanh cho vui thôi.
Người đầy tớ nhận năm nén bạc và người đầy tớ nhận hai nén bạc đã đi ra kinh doanh một cách nghiêm chỉnh. Hai anh toàn tâm toàn ý, sống chết với công việc kinh doanh, chỉ một việc đó mà thôi. Hai anh dùng vốn của chủ giao phó để kinh doanh nhằm vào mục tiêu gì?
Mục tiêu của người đầy tớ là ‘làm lợi’ cho chủ. Quản gia Giô-xép đã làm lợi cho chủ Phô-ti-pha. Người vợ tài đức đem hết sức lực tài năng mưu lợi cho chồng con trong mọi công việc. Người chủ giao vườn nho cho các nông dân để họ trồng tỉa và thu hoa lợi. Dân của Chúa đã bị quở trách vì họ “chẳng làm ích chi cho mình, chẳng cứu giúp, cũng chẳng làm lợi, song làm cho mang hổ mang nhuốc” (EsIs 30:5).
Người đầy tớ biết rằng chủ không giao tài sản cho mình để rồi bỏ luôn không ngó ngàng gì đến tài sản đó. Trái lại chắc chắn chủ sẽ hỏi lợi nhuận từ người nhận năm nén bạc cho đến người chỉ nhận một nén bạc. Cho nên làm lợi ra cho chủ là mục tiêu của người đầy tớ. Có làm lợi mới chứng tỏ lòng trung thành, chứng tỏ sự siêng năng, chứng tỏ tài năng tổ chức công việc.
4. Tường trình.
Trong câu chuyện, ngày chủ trở về, việc tính sổ, tường trình và thưởng phạt được nói đến nhiều. Qua phần này chúng ta biết trong quá khứ ba người đầy tớ nghĩ gì và làm gì.
• Chủ trở về là thời điểm chấm dứt một giai đoạn hoạt động của các đầy tớ. Như vậy đầy tớ phải nhận biết thời gian dành cho từng công việc.
• Chủ trở về cũng là thời điểm để xem xét lại những việc các đầy tớ đã thực hiện trong một giai đoạn.
• Chủ trở về là lúc từng người đầy tớ phải tường trình công việc của mình cho chủ.
• Chủ trở về cũng là lúc đánh giá công việc, đánh giá con người, đánh giá lại tất cả
Nếu đầy tớ có thời gian ‘ra đi’, ‘kinh doanh’ và ‘làm lợi’ thì cũng cần có thời gian để ‘tính sổ’ và ‘tường trình’ với chủ. Đây là điều nhiều đầy tớ không thấy hứng thú cho lắm. Những đầy tớ làm ăn không hiệu quả chắc chắn không muốn tính sổ và tường trình đã đành, mà ngay cả những đầy tớ làm ăn đàng hoàng, kinh doanh có lãi cũng không muốn.
Một trong những lý do là:
(1) Họ cho rằng không có thời gian cho việc tính sổ và tường trình, vì làm chưa xong việc này thì đã nhảy qua việc khác, quá bận rộn, không có thì giờ.
(2) Cũng có thể họ không biết tính sổ.
(3) Họ vừa là đầy tớ (khi làm việc) vừa là chủ (khi xong việc) cho nên không cần tính sổ và tường trình (Ẩn dụ tá điền).
Rồi cũng có nhiều người không thích và không chịu tường trình trong ‘thời gian còn ở trên đất’ và cho rằng mình sẽ ‘tường trình ở trên trời’. Nghe ra có vẻ thiêng liêng, nhưng đây là lối nói lẩn tránh những yếu kém và sai trật trong công việc cả về tổ chức lẫn thuộc linh. Khó lòng tường trình khi làm việc không có phương pháp, không có kỷ luật trong cách sử dụng tài sản của Chủ. Có người lầm tưởng rằng tường trình thiên đàng dễ dàng hơn ở trần gian. Thật ra nếu đã không nghiêm túc ở trần gian thì khó có thể nghiêm túc ở thiên đàng; ở trần gian còn có thể giấu diếm, ém nhẹm, còn ở thiên đàng thì mọi sự đều tỏ tường.
Sau một giai đoạn phục vụ tại Hội thánh Ê-phê-sô ông Phao-lô đã tường trình lại công việc của mình (Công Cv 20:28-35). Sau khi đãi đoàn dân một bữa ăn, Chúa Giê-xu bảo các môn-đệ tổng kết và tường trình lại cho Ngài (Mat Mt 15:29-39).
Vui hoặc buồn khi tường trình, đầu ngẩng cao hoặc cúi thấp, vinh dự hoặc tủi nhục tuỳ thuộc vào việc người đầy tớ có chịu ra đi kinh doanh làm lợi cho chủ ngay hôm nay hoặc không.
5. Thưởng phạt.
Có ba đầy tớ nhưng chỉ có hai hình thức thưởng và phạt.
Nếu tường trình mang tính cá nhân thì việc thưởng và phạt cũng mang tính cá nhân. Mỗi người tường trình với chủ và chủ sẽ quyết định thưởng hoặc phạt cho mỗi người. Đây là sự tôn trọng của chủ đối với người được chọn và sự nghiêm minh đối với người bị phạt.
Có những nơi làm việc, mỗi tháng, đến ngày phát lương, người chủ đích thân đến gặp nhân viên và phát lương cho từng người. Họ trò chuyện, trao đổi ý kiến, đề nghị… để tiếp tục công việc hoặc cảnh báo trước trường hợp có thể bị sa thải.
Nhờ có thưởng và phạt đầy tớ mới biết họ đang đứng ở vị trí nào trong mối thông công với chủ.
(1) Thưởng:
Nếu tường trình mang tính cá nhân thì việc thưởng hoặc phạt cũng vậy. Dù họ làm tốt như nhau, nhưng chủ khen thưởng cho từng người, dù nội dung khen thưởng có thể như nhau.
Chủ lần lượt nói với hai người đầy tớ: “Tốt lắm, anh là đầy tớ siêng năng và trung thành. Anh đã trung thành hoàn tất việc nhỏ, tôi sẽ giao cho anh việc lớn. Mời anh vào dự tiệc vui với chủ anh!”
Thưởng là:
-Được khen: ‘Tốt lắm!’ Công việc tốt, phẩm chất tốt.
-Được đánh giá, xếp loại siêng năng và trung thành.
-Được tin cậy hơn nữa ‘sẽ giao cho việc lớn hơn’
(câu 28: nhận lấy trách nhiệm của người bất trung)
-Được dư dật (câu 29: từ chỗ ‘có’ đến chỗ được ‘cho thêm’ và được ‘dư dật’)
-Được mời dự tiệc vui với chủ. Thêm niềm vui, thêm tương giao.
(2) Phạt.
-‘Hỡi tên đầy tớ hư hỏng và biếng nhác.’ Đây là câu nói vừa bày tỏ sự thất vọng của chủ đối với người đầy tớ, vừa xếp loại và đánh giá phẩm chất của anh ta.
-Vì sao lại bị xếp loại ‘hư hỏng và biếng nhác’? Qua lời của chủ: “Anh đã biết tôi… Lẽ ra anh…”. Anh ta đã biết ý của chủ thì anh cũng phải biết nên làm gì. Là người ý thức về chủ, ý thức về mình và ý thức về tài sản chủ giao nhưng anh ta lại không chịu làm gì cả. Anh ta tự làm hư hỏng con người của mình, tự huỷ hoại phẩm chất tốt đẹp của mình.
-”Hãy lấy nén bạc của hắn và cho người có mười nén.” Người đầy tớ bị phạt là bị tước mất những điều mình đã nhận. Từ chỗ có thành không có.
-Người đầy tớ bị chê là “đầy tớ vô dụng”. Từ chỗ được chủ coi là có ích bây giờ không còn ích lợi nữa. Anh ta chỉ là người choán chỗ mà thôi. Như nhánh nho khô, như cây vả không có kết quả, không còn ích lợi gì nữa.
-Cuối cùng bị phạt là bị quăng vào nơi (1)tối tăm, (2)khóc lóc, (3)và nghiến răng. Đây là nơi nào vậy? Nơi đây không còn cơ hội nữa, không còn tương giao với chủ nữa. Nơi chỉ còn tủi hổ, buồn rầu và đau đớn
Bài 3: QUẢN GIA TRUNG THÀNH VÀ KHÔN NGOAN
42. Chúa dạy: “Ai là người quản gia trung thành và khôn ngoan được chủ cắt đặt quản lý các gia nhân trong nhà để cấp phát lương thực cho họ đúng giờ? 43. Phúc cho người đầy tớ, khi chủ về thấy người ấy đang làm như vậy. 44. Tôi nói thật với anh em, chủ sẽ cắt đặt người ấy quản lý toàn bộ tài sản của mình. 45. Nhưng nếu người đầy tớ ấy tự nhủ: ‘Chủ ta còn lâu mới về’, rồi bắt đầu đánh đập tôi trai tớ gái và chè chén say sưa, 46. chủ sẽ về trong ngày hắn không ngờ, vào giờ hắn không biết, sẽ phanh thây hắn, cho hắn chịu chung số phận với những người vô tín.
47. “Đầy tớ nào đã biết ý chủ mà không chuẩn bị sẵn sàng, hoặc không làm theo ý chủ thì sẽ bị đòn nhiều. 48. Còn người không biết ý chủ, lỡ làm những việc đáng bị phạt thì sẽ bị đòn ít. Ai được ban cho nhiều, sẽ bị đòi lại nhiều; ai được giao phó nhiều, sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn.”
(LuLc 12:42-48)
(Mat Mt 24:45-51)
1. Quản gia với chủ.
Từ ngữ quan trọng trong mối quan hệ giữa quản gia với chủ là từ biết. Chủ biết quản gia, nhờ biết mới tin cậy, uỷ thác. Ngược lại quản gia cần biết những điều gì nơi chủ?
(1) Quản gia phải ‘biết ý chủ’.
Câu hỏi của rất nhiều quản gia ngày nay là: “Làm sao để biết ý chủ?” Đôi khi đã nhận làm việc và đang làm việc cho chủ mà họ vẫn còn hỏi câu này. Lẽ ra họ phải tự hỏi: “Vì sao đã là quản gia mà lại không biết ý của chủ?”
Khi hỏi làm sao để biết ý chủ, tức là muốn tìm phương pháp; nhưng khi hỏi vì sao làm quản gia mà lại không biết ý chủ, tức là muốn phát hiện sai trật của bản thân.
Nếu là quản gia bạn sẽ hỏi loại câu hỏi nào?
Vì sao là quản gia mà không biết ý chủ? Phải chăng mối quan hệ giữa quản gia với chủ quá hời hợt đến nỗi quản gia không biết ý chủ.
Hoặc là quản gia không nhận ra được ý chủ thông qua những điều chủ nói, những việc chủ làm.
Khi chủ giao công việc và trách nhiệm, liệu quản gia có biết ý chủ là gì không?
Quản gia có biết chủ kỳ vọng nơi anh ta điều gì không?
Quản gia có biết khi chủ ra đi thì chủ sẽ trở về không? Có biết thời điểm trở về là tuỳ theo ý của chủ không?
Quản gia biết nguyên tắc thưởng phạt của chủ trước khi việc xảy ra, hay là sau đó mới biết?
(2) Thực hiện ý của chủ.
Biết ý chủ mới chỉ là khía cạnh ý thức. Quản gia còn cần làm theo ý chủ. Trong câu chuyện ít nhất có ba thái độ đối với ý chủ:
-Làm theo ý chủ. Đây là người quản gia ‘biết ý chủ’ và ‘chuẩn bị sẵn sàng’, để ‘làm theo ý chủ’. Đây là quản gia trung thành và khôn ngoan.
-‘Biết ý chủ’ nhưng không làm theo ý chủ. Đây là quản gia ‘không chuẩn bị sẵn sàng’, ‘không làm theo ý chủ’. Loại quản gia xấu, bất trung (Mat Mt 24:48).
-‘Không biết ý chủ’ cho nên ‘lỡ làm những việc đáng bị phạt’. Đây là loại quản gia thiếu hiểu biết, dại dột. Có thể anh ta tưởng rằng anh ta biết ý chủ, nhưng trong khi thực hiện công tác thì anh lỡ làm không đúng ý chủ. Anh ta nói: Tôi đâu có biết! Đây là người quản gia không biết ý chủ trong những vấn đề chi tiết chứ không phải trong vấn đề toàn diện.
2. Quản gia với công việc
Từ ngữ liên quan đến công việc của quản gia nằm trong nhóm từ ‘làm như vậy’. Làm như vậy nghĩa là ‘quản lý các gia nhân‘ và ‘cấp phát lương thực đúng giờ’. Nhóm từ này gói ghém ít nhất hai ý nghĩa:
(1) Làm đúng công việc.
(2) Làm việc có kế hoạch có tổ chức.
Nói cách khác đây là người gương mẫu trong công việc. Hoàn thành công việc, làm đâu ra đó.
- Quản gia phải làm đúng công việc của mình.
Nhiều người ôm đồm nhiều công việc, đến nỗi phải có đến trăm tay nghìn mắt mới làm nổi, hoạt động như chiếc vòi bạch tuộc. Nhưng con bạch tuộc dùng nhiều vòi để nhắm vào một mục tiêu, còn người lãnh đạo theo kiểu bạch tuộc thì ôm đồm nhiều công việc và quá nhiều mục tiêu. Cho nên không xong việc gì cả, cứ dở dở ươn ươn, bỏ thì thương mà vương thì tội. Thật đáng tiếc.
Người lãnh đạo cần xác định đúng công việc của mình, và khi làm việc cần tự hỏi: Có đúng là chủ muốn tôi làm việc này hay không?
Làm đúng việc mới là khôn ngoan và trung thành.
Ta thử suy nghĩ xem khi quản gia “được chủ cắt đặt quản lý các gia nhân trong nhà để cấp phát lương thực cho họ” làm đúng công việc tức là làm những việc gì?
Để quản lý đám gia nhân quản gia cần làm gì?
Để cấp phát lương thực cho họ quản gia cần làm gì?
- Quản gia phải biết tổ chức công việc cho hợp lý, có trật tự.
Mục tiêu trước mắt là đúng giờ đối với người, mục tiêu dài hạn là hoàn tất đối với chủ
Từ ngữ ‘đúng giờ’ cho thấy đây là con người gương mẫu trong cách sử dụng thì giờ.
Đó là biết chọn ưu tiên một cách rõ ràng. Biết lưu tâm đến vấn đề chính, biết vấn đề nào là phụ.
Đó là hoạch định công việc và thì giờ một cách chu đáo. Kiểm soát được công việc của mình.
Đó là dùng thì giờ một cách đích đáng, nghĩa là dùng thì giờ để làm những điều đáng làm. Không phí phạm thì giờ cho những việc không cần thiết.
Đó là ý thức về thời gian chủ đã ấn định đối với công việc cần làm. Nghĩa là làm xong công tác trong thì giờ ấn định. Chúa Giê-xu có thể không có thì giờ ăn, không có thì giờ nghỉ ngơi. Chúng ta nghĩ Ngài bận rộn và chịu nhiều áp lực. Nhưng cần biết rằng không bao giờ vì những vấn đề đó mà Ngài không ‘hoàn tất công việc Cha uỷ thác cho’. Còn chúng ta, những người lãnh đạo dư giờ ăn, thừa giờ ngủ nhưng không bao giờ hoàn tất công việc Chúa giao cho mình.
Thất bại của người lãnh đạo đôi khi bắt nguồn từ chỗ không biết tổ chức cuộc sống của mình cho phù hợp với công việc.
Thất bại trong việc sử dụng thì giờ cho cuộc sống riêng sẽ ảnh hưởng đến công tác lãnh đạo.
3. Quản gia với con người.
Trước hết quản gia ‘được chủ cắt đặt quản lý các gia nhân trong nhà để cấp phát lương thực cho họ đúng giờ’ (câu 42). Khi người quản gia chứng tỏ được lòng trung thành và khôn ngoan thì chủ ‘cắt đặt người ấy quản lý toàn bộ tài sản của mình’ (câu 44)
Ta thường nói giao việc nhỏ trước, giao việc lớn sau. Thế nào là việc nhỏ, thế nào là việc lớn? ‘Quản lý các gia nhân trong nhà để cấp phát lương thực cho họ’ là việc nhỏ; còn ‘quản lý toàn bộ tài sản’ là việc lớn.
Điều thú vị trong ẩn dụ này là người quản gia được chủ giao cho việc quản lý liên quan đến con người trước, rồi sau đó mới giao cho quản lý toàn bộ tài sản. Quản lý con người trước khi quản lý tài sản (bao gồm tất cả con người, công việc, tiền bạc, của cải vật chất)
Ở đây chúng ta không bàn về sự khôn ngoan của chủ. Nhưng cần học tập về cách giao phó trách nhiệm cho người dưới quyền. Trách nhiệm và công việc liên quan đến con người là một thách thức lớn nhưng trách nhiệm về vật chất lại là thách thức lớn hơn.
Đôi khi chúng ta làm ngược lại, tức là giao tài sản trước, rồi sau đó mới giao con người.
Quản gia thể hiện lòng trung thành và sự khôn ngoan của mình qua việc chu toàn công việc lẫn qua cách đối xử với những người anh ta có trách nhiệm.
Công tác ‘quản lý các gia nhân’ gói ghém trong ba ý tưởng. Đây cũng là ba thái độ của người lãnh đạo đối với người được lãnh đạo.
(1)‘Cấp phát lương thực cho họ đúng giờ’.
- Công việc và trách nhiệm của quản gia là quản lý các gia nhân trong nhà và cấp phát lương thực cho họ.
- Mục tiêu của gia nhân là công việc. Người làm việc này, kẻ làm việc kia theo sự sai bảo; còn mục tiêu của quản gia là con người, là gia nhân. Làm sao chu cấp lương thực cho họ đúng lúc.
- Việc ‘cấp phát lương thực cho họ đúng giờ’ giúp cho con người khoẻ mạnh, đồng thời cũng là thúc đẩy công việc tiến triển đều đặn.
- Một trong những sai lầm của người lãnh đạo là chỉ biết nhắm vào phạm trù công việc, tham công tiếc việc mà bỏ qua phạm trù con người, quên con người - quên bản thân mình, quên cả người cộng sự lẫn hội chúng của mình. Nói cách khác, người lãnh đạo dùng con người để thực hiện những chương trình, kế hoạch, nhưng không có chương trình kế hoạch nào cho con người cả.
- Một trong những cách quan tâm đến con người là làm sao cho họ được no đủ. Gia nhân no đủ thì công việc mới tiến triển và kết quả. Con người sung mãn thì công việc mới hiệu quả.
Thí dụ: yêu cầu công nhân làm thêm nhưng không có bữa ăn tối, chỉ quan tâm đến việc làm sao cho hoàn thành kế hoạch. Giới lãnh đạo cần nhớ lời Chúa Giê-xu dạy: “Chính anh em hãy cho họ ăn!” trước khi muốn họ làm gì. Đừng bảo họ có làm thì mới cho ăn, nhưng nên nói ngược lại: Mời anh em ăn trước rồi chúng ta sẽ làm việc. Hình ảnh các môn đệ đi đánh cá suốt đêm để kiếm miếng ăn; khác hẳn hình ảnh sáng sớm “khi họ lên bờ họ thấy đã có lửa than với cá và bánh ở trên.” Chúa Giê-xu đã mời họ đến ăn và sau khi ăn xong Chúa mới nói về công việc.
- Có thì mới cho, có lương thực mới cấp phát lương thực. Có nhận lương thực nơi chủ thì mới có để cấp phát cho gia nhân. Điều này cho thấy quản gia có đặc ân hơn những gia nhân ở điểm anh ta nhận lương thực và quản lý lương thực của chủ, còn gia nhân thì được quản gia cấp phát lương thực, thụ hưởng và làm việc. Như vậy để có thể cung ứng nhu cầu cho con người, quản gia cần xem xét kho lương thực mình đang quản lý.
Là quản gia, tôi có gì để giúp gia nhân trong nhà được no đủ không? Tôi cung cấp gì cho gia nhân trước khi yêu cầu họ làm việc?
- Một quản gia mà không có gì để cấp phát cho gia nhân trong nhà là do lỗi của ai? Lỗi của chủ hay là người quản gia.
- Nêu cụ thể những lương thực bạn cần cấp phát cho các gia nhân.
(2) ‘Đánh đập tôi trai tớ gái’
Có người lãnh đạo nói: “Tôi đâu có bỏ quên con người. Tôi chú ý đến con người lắm chứ.” Nhưng đương sự lại chú trọng đến con người theo kiểu ‘khủng bố’.
Người lãnh đạo ‘đánh đập tôi trai tớ gái’ không phải là loại người làm biếng, hoặc là người không có mục tiêu. Có thể người đó rất siêng năng và đầy tham vọng, nhưng có điều là ông ta ‘khoái đánh đập’.
• Có thể là do tánh tình hoặc thói quen.
Một người lãnh đạo mà có tánh nóng nảy, thích ‘đánh-đập-bằng-lời-nói’ với nhân viên hoặc đối xử sự với nhân viên theo cách của bọn cướp ở con đường xuống Giê-ri-cô thì trước sau gì đám nhân viên cũng dở sống dở chết.
• Có thể là do chủ trương hoặc quan niệm lãnh đạo. Thiếu gì người chủ trương dùng bạo lực, trấn áp, khủng bố người dưới quyền. Đó là loại người lãnh đạo độc tài, muốn củng cố và muốn chứng tỏ quyền lực của mình, tuy nhiên không che giấu được mặc cảm bị người khác coi thường
Người lãnh đạo ‘đánh đập tôi trai tớ gái’ cũng là người không chịu lắng nghe người khác, luôn luôn cho ý mình là đúng và bắt người ta làm theo ý mình.
Dù là do tánh tình hoặc thói quen, dù là do chủ trương hoặc quan niệm thì việc người lãnh đạo ‘đánh đập tôi trai tớ gái’ vừa cho thấy bản chất tàn bạo của người lãnh đạo, vừa cho thấy họ xem nhẹ con người, coi con người không ra gì và chỉ biết coi trọng công việc và chỉ biết có bản thân mình.
Nếu phát xuất từ tính tình hoặc thói quen mà người lãnh đạo ‘đánh đập tôi trai tớ gái’ thì đó là biểu hiện của người không thắng được bản ngã xấu xa của mình.
Nếu phát xuất từ quan niệm hoặc chủ trương mà người lãnh đạo ‘đánh đập tôi trai tớ gái’ thì đó là biểu hiện của người tìm kiếm uy quyền theo cách thức của con người
Cũng vì thói quen và quan niệm này mà những nhà lãnh đạo sau khi ‘đánh đập tôi trai tớ gái’ họ còn xoay qua ‘đánh đập lẫn nhau’.
(3) ‘Chè chén say sưa’
Người ‘chè chén say sưa’ là người ‘yêu bản thân’ và ‘yêu khoái lạc’. Đây là hình ảnh thất bại trước sự thèm muốn của bản ngã và cũng là hình ảnh suy đồi, mất phẩm chất đạo đức của người lãnh đạo. ‘Chè chén say sưa’ chỉ là bước đầu trong chặng đường sa lầy của người lãnh đạo. Đây không phải là con người bước theo Thánh Linh, nhưng rõ ràng là con người đang sống theo xác thịt và làm theo những ước muốn của xác thịt.
Người ‘chè chén say sưa’ là người không có kỷ luật bản thân. Anh ta có thể nghiêm khắc với người khác (đánh đập họ) nhưng lại dễ dãi với chính mình.
Anh ta không gương mẫu trong công việc (‘không chuẩn bị sẵn sàng’), không gương mẫu trong quan hệ với nhân viên (‘đánh đập tôi trai tớ gái’) và không gương mẫu trong nếp sống (‘chè chén say sưa’)
‘Chè chén say sưa’ mô tả về một đam mê, một thú vui khiến đương sự quên trách nhiệm của mình. Giống như một người lãnh đạo tinh thần mà lại mê ăn uống, mê nhậu nhẹt; người dạy Kinh Thánh mà lại mê chuyện kiếm hiệp... Nói cách khác người ‘chè chén say sưa’ đã ăn những thứ không nên ăn, uống những thứ không nên uống.
Người ‘chè chén say sưa’ không bao giờ ‘chè chén say sưa’ một mình, anh ta kéo theo một số người để cùng hội cùng thuyền, chén tạc chèn thù với anh ta. Đây là hình ảnh quản gia làm hư hỏng một số người dưới quyền.
Mat Mt 24:49 ghi quản gia ‘ăn nhậu với bọn say sưa’. Bọn say sưa vừa có thể là một số gia nhân do anh ta quản lý vừa là những người ở bên ngoài. Họ tụ họp lại với nhau để chén chú chén anh.
Kết quả: bản thân hư hỏng, người dưới quyền hư hỏng, phá hoại công việc và con người của chủ.
Lạy Chúa, con xin cứng rắn hơn, nghiêm khắc hơn đối với bản thân,
Con người hèn nhát trong con thường thèm khát lạc thú, ưa thích nghỉ ngơi thoải mái.
Bản thân con là kẻ phản bội con nhiều nhất.
Là người bạn cạn cợt nông nỗi nhất,
Là kẻ thù nguy hiểm lâu dài nhất,
Là kẻ gây trở ngại trên mọi nẻo đường đời của con.
4. Giải quyết những sai lầm
Là người lãnh đạo, khi học về câu chuyện người quản gia có thể chúng ta nhận ra những sai lầm trong cách làm việc của mình. Chúng ta không dám nói: “Chủ mình còn lâu mới về”, hoặc tự nhủ: “Chủ ta sẽ về trễ!” (Mat Mt 24:48), nhưng có thể chúng ta nghĩ: “May quá! Chủ chưa về!”
Người nói câu: “Chủ mình còn lâu mới về” hoặc: “Chủ ta sẽ về trễ!” là người còn muốn tiếp tục đắm chìm trong sai lầm, không muốn từ bỏ những sai trật trong cuộc sống bản thân và cách lãnh đạo.
Còn người nói: “May quá! Chủ chưa về!” là người sực tỉnh cơn mê, biết mình sai lầm. Mừng vì thấy mình còn có cơ hội thay đổi bản thân, thay đổi cách làm việc.
Để làm gì? Để chứng tỏ lòng trung thành và khôn ngoan. Để không chịu chung số phận với những người vô tín.
Nhưng bạn giải quyết những sai lầm của mình như thế nào? Và thay đổi bao lâu?
Ta hãy xem xét sai lầm của bản thân qua câu chuyện.
- Sai lầm của bạn thuộc loại cố ý hay vô ý? Vì người quản gia có thể ‘không biết ý chủ’ và có thể ‘lỡ làm những việc đáng bị phạt’
-Sai lầm của bạn mang tính dài hạn hoặc ngắn hạn? Là thói quen, từ trong bản chất hoặc là vấp ngã nhất thời.
- Sai lầm liên quan đến tài năng hoặc đức độ. Liên quan đến công việc quản lý, việc cấp phát lương thực, hoặc là việc ‘chè chén say sưa’.
Để trở thành người trung thành và khôn ngoan, bạn cần lưu ý ba mối quan hệ.
(1) Bạn với người trên bạn.
(2) Bạn với công việc được giao.
(3) Bạn với những người trong phạm vi công tác của bạn.
Bài 4: ANH VÀ EM
6. Khi dân Am-môn thấy mình bị Đa-vít gớm ghét, bèn sai người đi chiêu mộ dân Sy-ri ở Bết-rê-hốt và ở Xô-ba, số chừng hai vạn lính bộ; lại chiêu mộ vua Ma-a-ca với một ngàn người, và một vạn hai ngàn người ở xứ Tóp. 7. Đa-vít hay được điều đó, liền sai Giô-áp với các dõng sĩ của đạo binh mình đi đánh chúng nó. 8. Dân Am-môn kéo ra, dàn trận tại nơi cửa thành, còn dân Sy-ri ở Xô-ba và ở Rê-hốp, những người ở Tóp và ở Ma-a-ca đều đóng riêng ra trong đồng bằng.
9. Giô-áp thấy quân giặc hãm đánh đằng trước và đằng sau, bèn chọn người lính trong đạo tinh binh Y-sơ-ra-ên, và dàn binh đó ra cùng dân Sy-ri; 10. còn binh còn lại, người trao cho A-bi-sai, em mình đặng bày trận đối cùng dân Am-môn. 11. Người nói cùng A-bi-sai rằng: Nếu dân Sy-ri mạnh hơn anh, em sẽ đến giúp anh; nhưng nếu dân Am-môn mạnh hơn em, anh sẽ đến giúp em. 12. Hãy vững lòng bền chí, đánh giặc cách can đảm, vì dân sự ta và vì các thành của Đức Chúa Trời chúng ta; nguyện Đức Giê-hô-va làm theo ý Ngài lấy làm tốt! 13. Đoạn Giô-áp với quân lính theo người đều đến gần, giao chiến cùng dân Sy-ri; chúng chạy trốn trước mặt người. 14. Bấy giờ, vì dân Am-môn thấy dân Sy-ri chạy trốn, thì chúng cũng chạy trốn khỏi trước mặt A-bi-sai, và vào trong thành. Giô-áp lìa khỏi dân Am-môn mà trở về Giê-ru-sa-lem.
(IISa 2Sm 10:6-14)
Trận chiến này diễn ra trong thời trị vì của vua Đa-vít. Vua Đa-vít từng lập nhiều chiến công hiển hách, từ khi còn là một thiếu niên đi chăn chiên, cho đến khi trở thành vua của dân Y-sơ-ra-ên. Trong vai trò lãnh đạo có lúc vua Đa-vít không đích thân ra trận, vua ‘sai Giô-áp với các dõng sĩ của đạo binh mình’.
Nhận diện nhân vật.
Trong phân đoạn Kinh Thánh này, ông Giô-áp được nhắc đến trước nhất. “Đa-vít hay được điều đó, liền sai Giô-áp với các dõng sĩ của đạo binh mình đi đánh chúng nó.”
• Ông Giô-áp là ai? Từ sách Sa-mu-ên cho đến Sử-ký có đến 120 lần nhắc đến tên của ông Giô-áp. Ông là một nhân vật quan trọng, là một vị tướng có tài, cũng là một con người tàn nhẫn.
-Ông Giô-áp là nhân vật thứ hai trong triều Đa-vít. IISa 2Sm 8:15-16: “Đa-vít làm vua trên cả I-xơ-ra-ên, cai trị cả dân sự mình cách ngay thẳng và công bình. Giô-áp, con trai Xê-ru-gia, làm quan tổng binh; Giô-sa-phát, con trai A-hi-lút, làm quan thái sử;” Triều đình Đa-vít gồm có trước hết là Đa-vít, kế đến là quan tổng binh Giô-áp, sau đó mới đến những nhân vật khác.
-Ông Giô-áp là người chấp nhận thách thức và đi tiên phong. ISu1Sb 11:6. “Đa-vít nói rằng: Hễ ai hãm đánh dân Giê-bu-sít trước hết, ắt sẽ được làm trưởng và làm tướng. Vậy, Giô-áp, con trai Xê-ru-gia, đi lên đánh trước hết, nên được làm quan trưởng.” Đây là tinh thần tiến công của người lãnh đạo.
• Ông A-bi-sai là ai? Ông là một người thân cận, cùng vào sinh ra tử với Đa-vít. ISa1Sm 26:6-7: “Đa-vít cất tiếng nói cùng A-hi-mê-léc, người Hê-tít, và A-bi-sai, con trai của Xê-ru-gia, em của Giô-áp, rằng: Ai muốn đi cùng ta xuống dinh Sau-lơ? A-bi-sai đáp: Tôi sẽ đi xuống với ông. Vậy, Đa-vít và A-bi-sai lúc ban đêm vào giữa quân lính, thấy Sau-lơ đương ngủ, nằm trong đồn…” Khi ông Đa-vít chưa làm vua ông A-bi-sai đã là người trung thành và thân cận.
-Ông A-bi-sai cũng là dõng tướng của vua Đa-vít. IISa 2Sm 23:18: “A-bi-sai em Giô-áp, con trai của Xê-ru-gia, làm tướng của ba người dõng sĩ; … Trong cả ba, A-bi-sai có danh hơn hết, và người làm đầu họ…” Trong phân đoạn Kinh Thánh, A-bi-sai được giới thiệu là một trong các ‘dõng sĩ của đạo binh’ vua Đa-vít.
-Ông A-bi-sai là vị tướng trung thành với vua Đa-vít. Khi vua gặp hoạn nạn, vua chia quân làm ba đạo binh, ông Giô-áp nhận một đạo binh, ông A-bi-sai nhận một đạo binh và ông Y-tai nhận một đạo binh (IISa 2Sm 18:2) .
-Ông A-bi-sai cũng là người từng cứu mạng vua Đa-vít. “Bấy giờ, Ít-bi-Bê-nốp, con cháu của Ra-pha có một cây lao nặng ba trăm siếc-lơ đồng và đeo gươm mới, toan đánh giết Đa-vít. Nhưng A-bi-sai, con Xê-ru-gia, đến tiếp cứu vua, đánh người Phi-li-tin ấy, và giết đi” (IISa 2Sm 21:16-17) .
-Ông A-bi-sai là con người có chiến công. ISu1Sb 11:20. “Lại có A-bi-sai, em của Giô-áp, làm đầu trong ba người mạnh dạn; người dùng giáo mình mà giết ba trăm người, nên nổi tiếng trong ba người ấy.” 18:12": “Vả lại, A-bi-sai, con trai của Xê-ru-gia, đánh giết tại trong trũng Muối, một vạn tám ngàn người Ê-đôm.”
Ông Giô-áp và ông A-bi-sai là hai anh em, một người làm quan tổng binh, một người làm dõng tướng. Họ cùng phục vụ trong triều vua Đa-vít và hiện tại cùng thực hiện chung một công tác. Trong công tác ông Giô-áp là người chỉ huy, ông A-bi-sai là người dưới quyền chỉ huy của anh mình.
Sắp xếp trật tự:
Ông Đa-vít -Ông Giô-áp -Ông A-bi-sai - Tinh binh
Vua Quan tổng binh Dõng tướng Tinh binh.
Trong vai trò của mình, người lãnh đạo phải làm những gì khi ‘đi’ (câu 7) để có thể ‘trở về’ (câu 14) .
1. Nhận diện vấn đề.
(Con mắt, tầm nhìn trong kế hoạch.)
Giô-áp thấy quân giặc hãm đánh đằng trước và đằng sau,
Ai là người có thể nhận ra vấn đề? Bất cứ người nào cũng có thể nhận ra vấn đề. Một người lãnh đạo không nhận ra tình hình thì thế nào? Người cộng sự không nhận ra tình hình thì thế nào?
Người lãnh đạo cần thấy tình hình như ông Giô-áp thấy. Có lẽ người dưới quyền thấy, cả đạo quân đều thấy, nhưng quan trọng nhất là người lãnh đạo phải nhận biết tình hình, phải thấy vấn đề. Có thấy rõ vấn đề thì mới tính đến biện pháp giải quyết.
Nhận định tình hình, đánh giá đúng hoàn cảnh sẽ rất có ích cho người lãnh đạo. Nhiều người lãnh đạo không nhận biết hoặc đánh giá sai về vấn đề mình đang gặp. Ông Lót, ông Sam-sôn đã rơi vào trường hợp này. Họ không nhìn biết đúng và không lường trước việc sẽ diễn biến như thế nào, cho nên họ thất bại.
Về một phương diện, nói đến tầm nhìn của người lãnh đạo là bao gồm cả việc xác định đúng thực tế trước mắt lẫn việc dự phóng diễn biến trong tương lai.
Vấn đề ông Giô-áp đang đối diện là gì? Giải quyết vấn đề có khó không? Vấn đề đó có ảnh hưởng gì đến bản thân của ông, đến những người cùng làm việc với ông, đến quân sĩ, đến vua Đa-vít, đến dân Y-sơ-ra-ên, đến danh của Chúa?
Nhờ nhận định chính xác tình hình mà người lãnh đạo có thể đề ra phương án giải quyết phù hợp. Giải quyết vấn đề bằng cách nào?
2. Kế hoạch - Phân chia công việc.
(Trí tuệ trong kế hoạch. Tiến trình tự của kế hoạch.)
9. Giô-áp thấy…, bèn chọn người lính trong đạo tinh binh Y-sơ-ra-ên, và dàn binh đó ra cùng dân Sy-ri; 10. còn binh còn lại, người trao cho A-bi-sai, em mình đặng bày trận đối cùng dân Am-môn.
‘Chọn người - dàn binh - trao cho …’ những động từ này cho thấy ông Giô-áp thực hiện việc bày binh bố trận và phân chia trách nhiệm. Nhưng việc bày binh bố trận này phải căn cứ trên một kế hoạch đã được vạch ra. Cho nên chúng ta phải hiểu ở đây, (1) nhận biết tình hình, (2) lên kế hoạch, sau đó mới (3) thực hiện kế hoạch.
Khâu phân chia công việc (trong giai đoạn thực hiện kế hoạch) cho thấy người lãnh đạo có hướng giải quyết vấn đề, chủ động trước hoàn cảnh. Có kế hoạch mới phân chia công việc. Không có kế hoạch mà phân chia công việc có nghĩa là trốn chạy vấn đề và đối phó với vấn đề cách vô vọng.
Khâu thực hiện kế hoạch sẽ cho thấy phần nào quan điểm của người lãnh đạo. Ông Giô-ách đích thân chỉ huy và dàn binh cho thấy ông muốn đứng chung với mọi người trong kế hoạch do ông đề ra. Khi ông giao cho ông A-bi-sai một đạo binh cho thấy ông biết phân chia quyền hành, trách nhiệm và công việc.
Ai là người khởi xướng làm những việc này? Ai là người bày binh bố trận? Ai là người giao một phần binh lính cho A-bi-sai để ông này cầm quân ra trận? Đó là ông Giô-áp - người chỉ huy. Ông có trách nhiệm bày binh bố trận. Các dõng tướng có thể góp ý, nhưng quyết định cuối cùng là người lãnh đạo. Người chỉ huy có trách nhiệm phân chia công việc.
Ông Giô-áp là người chỉ huy, ông đã nắm được tình hình, bây giờ ông đề ra cách thức để giải quyết tình hình. Ông đã làm gì? Ông đã chia đạo binh làm hai, ông nhận một, ông A-bi-sai nhận một. Ông Giô-áp sẽ chiến đấu chống quân Sy-ri, còn ông A-bi-sai thì chiến đấu chống dân Am-môn. Đây là hình ảnh người lãnh đạo biết phân chia công việc, biết mình phải làm gì và người cộng sự phải làm gì.
Nhiều người lãnh đạo không hề phân chia công việc. Khi người chỉ huy không chịu phân chia công việc, chuyện gì xảy ra? Chỉ thấy con người nhưng không thấy hoạt động, hoặc chỉ có những hoạt động tự phát, theo ý riêng, vô tổ chức vô trật tự. Cũng có thể có chẳng ai thèm làm gì cả vì không biết nên làm gì. Trong tình trạng này một đội quân sẽ tiến từ chỗ vô tổ chức đến chỗ vô kỷ luật và tan rã.
Cũng có trường hợp nhiều người không chịu làm theo sự chỉ huy của người lãnh đạo vì không tôn trọng người lãnh đạo cả về phương diện đạo đức lẫn về phương diện tổ chức.
(1) Không tôn trọng người chỉ huy về phương diện đạo đức là xem thường coi khinh giá trị của người chỉ huy, và đối xử thiếu thành thật, thiếu đạo đức với người lãnh đạo.
(2) Không tôn trọng người chỉ huy về phương diện tổ chức tức là không tuân theo sự phân công, không phục tòng. Tuy phân chia ra hai phương diện như vậy, nhưng trong thực tế tất cả đều xen lẫn vào nhau.
Ông Giô-áp mắc phải lầm lỗi này khi ông giết ông Áp-ne (IISa 2Sm 3:22-30) và ông A-ma-sa (IISa 2Sm 20:4-13) . Ông đã tự ý hành động mà không đếm xỉa gì đến vua Đa-vít, người lãnh đạo lúc bấy giờ. Vua Đa-vít không hài lòng và rất đau lòng về cách giải quyết của ông Giô-áp nhưng vua cũng không thể điều khiển được ông.
3. Giúp đỡ, hỗ trợ.
(Sự tương giao, nâng đỡ, tình yêu trong kế hoạch.)
11. Người nói cùng A-bi-sai rằng: Nếu dân Sy-ri mạnh hơn anh, em sẽ đến giúp anh; nhưng nếu dân Am-môn mạnh hơn em, anh sẽ đến giúp em.
Ai là người nói câu này? Ai giúp ai? Ông Giô-áp dù là anh, là lãnh đạo, nhưng ông nói với em mình, là người dưới quyền của mình. “Nếu dân Sy-ri mạnh hơn anh.” Điều này có nghĩa gì? Anh có thể thua trước kẻ thù, em hãy đến giúp anh. Đây là câu nói của người khôn ngoan, biết mình có thể thất bại và cần giúp đỡ.
Ông Giô-áp không cho rằng mình thuộc loại bách chiến bách thắng, tuy là lãnh đạo nhưng ông cũng chỉ là con người, cũng có thể gặp thất bại, cần sự giúp đỡ của người cộng sự. Dù khi ông Giô-áp nói: “Nếu dân Sy-ri mạnh hơn anh, em sẽ đến giúp anh”, ông chưa ra trận, chưa thua, nhưng cách nói này làm cho người cộng sự nhìn thấy ở ông vừa là con người khôn ngoan, vừa biết dự liệu tình hình xấu nhất xảy ra thì phải thế nào, vừa cho thấy người lãnh đạo cần có một ông tướng thuộc loại nào.
Người chỉ huy không nói khả năng thất bại của người khác trước, mà nói về chính mình có thể thất bại. Và nếu người chỉ huy thú nhận mình cần giúp đỡ thì người cộng sự cũng sẵn sàng chấp nhận điều đó. Nếu nói người lãnh đạo cần làm gương, thì đây là một tấm gương.
Tấm gương về sự khôn ngoan, dự liệu, khéo ăn nói, biết đặt vấn đề và giải quyết vấn đề cách ổn thoả.
Ông Giô-áp biết em mình là dõng tướng, nhưng nếu anh là chỉ huy có thể thất bại thì em cũng có thể thất bại. Khi đó anh sẽ không bỏ rơi em, anh sẽ đến giúp em. Ông Giô-áp nói: “Nếu…. Anh sẽ đến giúp em”.
Khi đó ông A-bi-sai chưa ra trận và chưa chắc là thua. Nhưng khi nghe lời dặn dò đó ông A-bi-sai biết rằng anh mình, người chỉ huy của mình dù ở xa nhưng vẫn quan tâm đến công việc của mình và sẽ đến hỗ trợ khi cần. Câu dặn dò này làm cho ông cảm thấy không bị bỏ rơi. Trái lại cảm thấy người lãnh đạo không muốn mình thất bại trong công việc. Ông cũng hiểu rằng anh mình không muốn xảy ra cảnh anh thắng, em thua hoặc ngược lại em thắng, anh thua. Người lãnh đạo muốn cả hai đều đạt được thành quả tốt nhất trong công việc.
4. Khích lệ, động viên.
(Tư tưởng trong kế hoạch.)
12. Hãy vững lòng bền chí, đánh giặc cách can đảm, vì dân sự ta và vì các thành của Đức Chúa Trời chúng ta; nguyện Đức Giê-hô-va làm theo ý Ngài lấy làm tốt!
Lắm khi xảy ra trường hợp người lãnh đạo có chương trình, có kế hoạch, có nhân lực, có nhiều người cộng tác, nhưng lại là những con người không có tấm lòng, thiếu tinh thần, không có lý tưởng, không hết lòng hành động.
Có bốn điều ông Giô-áp khích lệ em của mình.
(1) ‘Vững lòng bền chí’ , nhờ đó mới có thể hoàn tất kế hoạch. Nhiều người lúc đầu rất hăng say, nhưng sau đó nguội dần, không bền bỉ trong công việc. Dù trong câu chuyện, đây chỉ là một phần của cuộc chiến, nhưng nếu không vững lòng bền chí trong một thời gian ngắn hạn thì khó mà bền bỉ trong những chiến dịch dài hạn. Vững lòng bền chí vừa nói lên sự chịu đựng lâu dài vừa nói lên phẩm chất trung thành trong công việc. Trung thành với mục tiêu đã đề ra, với công tác đang thực hiện.
(2) ‘Can đảm’ , mạnh dạn trong công việc. Đối với ông Giô-áp, ông A-bi-sai và quân sĩ, đây là cuộc chiến, cần dũng đảm để tấn công kẻ thù. Không phải chỉ can đảm trong chiến trận, mà trong cuộc sống đời thường cũng cần lòng can đảm khi thực hiện những công tác trong kế hoạch. Can đảm hy sinh bản thân, từ bỏ những ước muốn riêng tư và sống chết với công việc được giao.
(3) ‘Vì dân của Chúa và vì các thành của Chúa’ . Đây là lý tưởng của công việc. Chiến đấu vì cớ gì? Không phải làm việc vì công việc, cũng không phải vì bản thân, nhưng vì dân Chúa và thành luỹ của Ngài. Động cơ thôi thúc hành động là vì con người và vì danh của Chúa.
Nhiều người dấn thân nhưng vì những động cơ thiếu đúng đắn, đó là chỉ hướng về bản thân một cách ích kỷ và sai lầm. Lo bảo vệ chính mình mà không lo nghĩ đến anh em, lo bảo vệ thành luỹ của riêng mình mà không lo đến sự tồn vong của Hội thánh.
(4) Hết lòng mà làm, thành bại ở trong tay Chúa. Đây là tâm niệm của những người hết lòng làm việc. Khi dấn thân ai cũng muốn đạt được thành quả. Triển khai kế hoạch ai cũng muốn hoàn thành kế hoạch. Sau khi giao công việc và trách nhiệm, sau khi khích lệ tinh thần để ai nấy hết lòng làm việc người lãnh đạo cần nhận thức việc thành bại nằm trong quyền tể trị của Chúa. Như vậy người lãnh đạo phải đặt lòng tin nơi Chúa, vì Chúa là Đấng quyết định chớ không phải con người. Như vậy người lãnh đạo cũng không trách cứ những người đồng công nếu họ đã hết lòng hết sức trong công việc. Khi đã hết lòng trong công việc mà thất bại không nên oán Chúa hận người.
Liệu ông A-bi-sai trong tư cách chỉ huy có dùng những điều này để khích lệ những người dưới quyền của ông không?
Việc hỗ trợ, giúp đỡ và khích lệ, động viên cũng nói lên mối tương quan giữa người lãnh đạo với những người đồng sự. Người lãnh đạo bày tỏ tình yêu thương, sự gắn bó với nhau trong công việc.
5. Hành động
(Bàn tay trong kế hoạch.)
13. Đoạn Giô-áp với quân lính theo người đều đến gần, giao chiến cùng dân Sy-ri; chúng chạy trốn trước mặt người. 14. Bấy giờ, vì dân Am-môn thấy dân Sy-ri chạy trốn, thì chúng cũng chạy trốn khỏi trước mặt A-bi-sai, và vào trong thành.
Theo diễn tiến trong hai câu Kinh Thánh này thì cánh quân của ông Giô-áp xông ra trận mạc và giao chiến trước.
Nhiều kế hoạch bị án binh bất động do sự thụ động của người lãnh đạo. Tất nhiên người lãnh đạo không phải là người làm tất cả việc. Nhưng người lãnh đạo phải dấn thân và hành động. Còn thành phần cộng sự và hội chúng nhìn vào người lãnh đạo để quyết định dấn thân hoặc không.
Việc ông Giô-áp và đội quân của ông giao chiến trước và thắng trận có ảnh hưởng tốt trên cánh quân của ông A-bi-sai.
Người lãnh đạo có hành động thì những người trong cộng đồng sẽ có hành động. Chuyện gì xảy ra khi người lãnh đạo lên kế hoạch mà không chịu thi hành? Và chuyện gì xảy ra khi người nhận công tác lại không chấp hành? Ông Giô-áp lên kế hoạch và ông là người làm gương trong khâu thi hành kế hoạch, nhờ đó mà em của ông cũng hoàn tất kế hoạch.
Nhiều người không chịu thưc hiện những kế hoạch, những công việc được giao phó. Họ phải chịu trách nhiệm về việc thành bại. Họ sẽ bị đánh giá và bị loại trừ.
6. Tường trình.
(Kết thúc và khởi đầu)
Giô-áp lìa khỏi dân Am-môn mà trở về Giê-ru-sa-lem.
Sau khi hoàn tất công tác ông Giô-áp trở về Giê-ru-sa-lem. Việc trở về này có ý nghĩa gì? IISa 2Sm 20:22b “Giô-áp trở về Giê-ru-sa-lem, gần bên vua.” Ông Giô-áp trở về để gần bên vua. Người lãnh đạo nào cũng có người trên mình, là người mình phải trở về sau mỗi lần công tác. Gần bên vua, gần bên con người chớ không phải gần bên công việc, không phải gần bên những thứ vô tri vô giác. Những người lãnh đạo ở cấp bậc càng cao thì càng khó tìm được người trên mình để mà gần bên.
Gần bên vua để làm gì? Để tường trình với vua về những việc ông đã làm, để đánh giá những ưu khuyết điểm, để bàn luận về những chương trình kế hoạch mới, để tiếp tục được tín nhiệm và được sai đi. Đây là điều cần thiết trong một cơ cấu tổ chức.
Tuy nhiên có nhiều người ‘trở về’ và ‘gần bên’ người lãnh đạo nhưng trong tinh thần tiêu cực như những nịnh thần, hoặc những người chỉ biết ton hót để hưởng lợi, hoặc đổ hô cho người khác khi gặp thất bại và giành công cho mình khi có thành quả.
Xoá cờ rồi chơi lại là cách của một số người ngày nay trong công tác. Người ta thường nói chơi cho đã rồi ‘xù’ là xong. Hoặc hành động như kiểu trẻ em, chơi rồi bỏ, bỏ rồi chơi lại, mà không hề nghĩ ngợi đến kết quả ra sao. Nhiều cộng đồng Cơ-đốc ngày nay không biết họ đang tiến đến đâu, đang đi đâu và đã đạt được những gì vì từ người lãnh đạo, đến các cộng sự và hội chúng đều không tường trình lại những thành công và thất bại của họ. Khi chưa xác định mình đang ở đâu thì làm sao biết nên và không nên làm gì?
Nhiều người gắn bó và làm việc với người lãnh đạo, nhưng sau một thời gian họ lại lẩn tránh người lãnh đạo. Vì sao? Chắc chắn người đó có sai trật nên trốn tránh người lãnh đạo như vậy.
Do thất bại hoặc tệ hơn nữa là bỏ bê, thiếu trách nhiệm trong công việc cho nên không dám tường trình lại những sai trật của mình.
Có người nhận công tác và trách nhiệm rồi cứ ‘ở đó luôn’ mà không trở về vì chưa làm xong công tác và trách nhiệm. Đây là những người làm cho công việc trở nên trì trệ, không tiến lên được, chỉ dậm chân tại chỗ. Theo cung cách này thì nếu một đôi lần đương sự có trở về và tường trình thì nội dung luôn luôn là ‘bình thường’, ‘vẫn như cũ’.
Có người nhận công tác và trách nhiệm rồi ‘đi luôn’ và không bao giờ trở lại, là vì không hoàn thành công tác và bỏ trốn. Họ trở thành những người lường gạt và cướp giựt đối với người trên mình và người dưới mình. Đây là trường hợp những người lấy thành tích chung làm của mình, hoặc biển thủ công quỹ.
Tóm tắt
Nhân sự, cơ cấu.
Con người của kế hoạch.
Người lãnh đạo - Người cộng sự - Hội chúng.
Kế hoạch.
Vì sao có kế hoạch? Làm sao để có kế hoạch?
- Nhận định tình hình: ‘thấy’. - Soạn thảo kế hoạch.
Giao phó.
Những phần việc trong kế hoạch.
Vai trò của người lãnh đạo. Vai trò của người cộng sự
- Công việc cụ thể là gì? - Phân công cho ai?
Hỗ trợ.
- Tiên liệu để có thể giúp đỡ.
- Tình huống xấu nhất là gì?
Khích lệ.
- Động lực để hành động. - Duy trì kế hoạch.
Hành động.
- Lãnh đạo làm. - Cộng sự làm. - Hội chúng làm. Đồng bộ.
Tường trình.
- Trở về - Tiếp cận - Trình bày - Tiếp tục
Phân đoạn Kinh Thánh này cho thấy đôi khi có khâu nào trong công tác lãnh đạo không được thực hiện?
Bài 5: BẠN LÀ AI?
Các Quan-xét 13-16
Sam-sôn là ai? Bạn là ai? Hai con người trẻ trung ở hai thời đại khác nhau liệu có điểm chung nào trước dòng chảy của cuộc đời không?
Chúng ta hãy đặt lại câu hỏi
(1) Đối với Đức Chúa Trời, Sam-sôn là ai? Bạn là ai?
(2) Đối với dân của Chúa, Sam-sôn là ai? Bạn là ai?
Và (3) Đối với thế gian, xác thịt và ma quỷ, Sam-sôn là ai? Bạn là ai?
1. Đối với Đức Chúa Trời: Sam-sôn là ai? Bạn là ai?
Bạn là người thuộc về Chúa cũng như Sam-sôn thuộc về Chúa.
Bạn là dân tuyển của Chúa cũng như Sam-sôn là dân tuyển của Chúa.
Bạn là người được Chúa chọn cho chương trình của Ngài cũng như Sam-sôn được Chúa chọn từ trong lòng mẹ để phục vụ Ngài trong chức vụ một quan xét.
Bạn là một Na-xi-rê cho Đức Chúa Trời và Sam-sôn cũng là một Na-xi-rê cho Đức Chúa Trời.
Bạn là người được Chúa cho có cơ hội để phục vụ trong một thời gian đã ấn định cũng như Sam-sôn chỉ có 20 năm lãnh đạo tuyển dân của Chúa. Thời gian của mỗi người dài ngắn có thể khác nhau, nhưng mục đích giống nhau.
Bạn là người được Chúa ban phước cũng như Sam-sôn là người từng được Chúa ban phước.
Bạn là người được Thánh Linh của Chúa tác động như Sam-sôn được Thần của Đức Giê-hô-va cảm động.
Chúa có thể nói về bạn như thế này: “Trước khi tạo nên con trong lòng mẹ, ta đã biết con rồi, trước khi con sanh ra, ta đã biệt riêng con, lập con làm… cho…” (Gie Gr 1:4-5) .
“Con là đầy tớ Ta, là người Ta nâng đỡ; là người Ta chọn lựa, là người mà linh hồn Ta lấy làm đẹp lòng. Ta đặt thần linh Ta trên con…” (EsIs 42:1)
“Họ sẽ đánh nhau với con, nhưng không thắng con; vì ta ở cùng con đặng giải cứu con.” (Gie Gr 1:19) .
Bạn là người Chúa tin cậy, chọn lựa, biệt riêng, ban đặc ân và là món quà của Chúa gởi đến cho dân của Ngài. Bạn có nhận ra điều đó không?
2. Đối với dân của Chúa: Sam-sôn là ai? Bạn là ai?
Với dân của Chúa, Sam-sôn là người có trách nhiệm trên họ. Thoạt tiên trong câu chuyện, qua lời thiên sứ, cha mẹ của Sam-sôn là người phải có trách nhiệm trên ông.
A. Trước hết là trách nhiệm đối với bản thân.
Cac Tl 13:3-5: “Kìa, ngươi son sẻ không có con; nhưng ngươi sẽ thọ thai và sanh một con trai. Vậy, từ bây giờ, hãy cẩn thận, chớ uống rượu hay là vật chi say, và cũng đừng ăn vật gì chẳng sạch; vì ngươi sẽ có nghén và sanh một con trai. Dao cạo sẽ không đưa qua đầu nó, bởi vì đứa trẻ từ trong lòng mẹ sẽ làm người Na-xi-rê cho Đức Chúa Trời; về sau nó sẽ giải cứu Y-sơ-ra-ên khỏi tay dân Phi-li-tin.”
Bà Ma-nô-a khi nghe thiên sứ nói như vậy, bà làm gì?
13:7. Khi kể lại những điều thiên sứ nói với bà, bà Ma-nô-a có nhắc đến trách nhiệm của bà là: “Chớ uống rượu hay là vật chi say, và cũng đừng ăn vật gì chẳng sạch”; bà cũng nhớ đến trách nhiệm của đứa trẻ “từ trong lòng mẹ cho đến ngày qua đời, sẽ làm người Na-xi-rê cho Đức Chúa Trời.”
13:8. Ông Ma-nô-a thưa như thế này trong lời cầu nguyện: “Ôi, Chúa! Xin Chúa cho người của Đức Chúa Trời mà Chúa đã sai xuống, lại đến cùng chúng tôi, để dạy chúng tôi điều phải làm cho đứa trẻ sẽ sanh ra!”
Đây là lời cầu nguyện của bậc cha mẹ có trách nhiệm. Muốn chu toàn trách nhiệm Chúa giao cho thì phải xin Chúa dạy mình điều phải làm.
Một lần nữa, qua lời đối thoại thiên sứ, trong câu 13, ông bà Ma-nô-a biết ông bà phải làm gì.
Làm cách nào để bạn bày tỏ trách nhiệm của mình với người khác. Trước hết và trên hết bạn phải sống có trách nhiệm đối với bản thân . Thể hiện trách nhiệm đối với bản thân là thể hiện trách nhiệm đối với người mà Chúa giao.
Cha mẹ của Sam-sôn có trách nhiệm đối với Sam-sôn từ khi ông còn ở trong bụng mẹ cho đến khi lớn khôn. Muốn chu toàn trách nhiệm này họ phải sống có trách nhiệm đối với bản thân.
Khi bà Ma-nô-a ‘kiêng cử mọi điều’ như thiên sứ đã dặn, bà vừa có trách nhiệm đối với bản thân đồng thời cũng thể hiện trách nhiệm của bà đối với con của mình.
Kinh Thánh không cho chúng ta biết cha mẹ của Sam-sôn có chu toàn trách nhiệm hay không. Tuy nhiên trong câu 24, chúng ta biết mọi việc đều suông sẻ: “Người đàn bà này sanh một con trai, đặt tên là Sam-sôn. Đứa trẻ lớn lên và Đức Giê-hô-va ban phước cho”.
Đến phiên Sam-sôn cũng vậy. Chàng là người có trách nhiệm trên tuyển dân của Chúa. Giống như cha mẹ của ông, để thể hiện trách nhiệm của ông đối với Chúa và đối với tuyển dân của Chúa, để chu toàn trách nhiệm đối với dân tộc của mình, trước nhất Sam-sôn phải có trách nhiệm đối với bản thân.
• Trách nhiệm của Sam-sôn đối với bản thân ông là gì? Đó là trách nhiệm làm một Na-xi-rê cho đến khi qua đời.
Để có thể chu toàn trách nhiệm đối với tuyển dân của Chúa, Sam-sôn phải có trách nhiệm ‘làm người Na-xi-rê cho Đức Chúa Trời từ trong lòng mẹ cho đến ngày qua đời.’ (13:7b)
Dan Ds 6:1-27 nói về nếp sống Na-xi-rê là nếp sống biệt riêng mình ra cho Đức Giê-hô-va, trong đó có nêu cụ thể những điều người đó cần kiêng cữ. Người biệt riêng mình ra cho Đức Giê-hô-va là người có nếp sống đặc biệt - không giống ai.
(1) Kiêng cữ vài thức ăn đồ uống.
Kiêng cữ rượu và những sản phẩm làm từ nho (Dan Ds 6:3-4) .
(2) Không được đụng tới xác chết (Dan Ds 6:6-8).
(3) Không hớt tóc (Dan Ds 6:5) .
Đây là “dấu chỉ về sự biệt riêng ra cho Đức Chúa Trời” (Dan Ds 6:7) . Khi nhìn thấy một người không cắt tóc - anh ta khác với mọi người - thì nhận ra anh ta là người biệt riêng ra cho Chúa. Ngược lại khi thấy một người cạo đầu thì biết rằng anh ta là một Na-xi-rê đã phạm lời nguyền, anh ta phải cạo đầu và bắt đầu lại (Dan Ds 6:9-12) .
Sam-sôn có chu toàn trách nhiệm làm một Na-xi-rê cho Đức Chúa Trời không? Thật đáng tiếc vì ông luôn luôn vi phạm lời nguyền.
Dù biết rất rõ rằng: ‘người biệt mình riêng ra cho Đức Giê-hô-va chớ đến gần người chết’ (Dan Ds 6:6) thế mà Sam-sôn lại tự làm ô uế mình bằng cách lấy mật ong từ xác con sư tử. Cac Tl 14:8-9a : “Sau một ít lâu, người trở lại đặng cưới nàng; đi vòng lại xem cái thây sư tử, thấy trong xác nó có một đàn ong. Người bụm mật trong tay, vừa ăn vừa đi.”
Nhưng vì sao Sam-sôn lại chấp nhận làm ô uế bản thân? Vì ông thèm mật ong: “Của không phải trả tiền tội gì bỏ. Bị ô uế thì về làm lễ tẩy sạch là xong chớ có gì đâu. Hôm nay ta phá luật một bữa.”
Dù biết rất rõ rằng: “Khi hứa nguyện Na-xi-rê… phải kiêng cử rượu và vật uống say”. Thế nhưng khi Kinh Thánh ghi: “Cha người đi xuống nhà người nữ ấy, và tại đó Sam-sôn bày ra một tiệc” (Cac Tl 14:10). Chắc chắn là ông có uống rượu. Vì sao? Vì nhà trai xuống nhà gái, nhập gia phải tuỳ tục. Vì nhà gái toàn là dân uống rượu. Vì đám tiệc nào ở đây cũng có rượu cả. Mà người ta uống thì mình không uống không được, thôi thì mình chỉ nhâm nhi thôi.
Dù biết vai trò của mình là “giải cứu Y-sơ-ra-ên khỏi tay dân Phi-li-tin” (Cac Tl 13:5) , cha mẹ Sam-sôn chắc chắn có nói điều nầy cho ông, nhưng thay vì tìm cách giải cứu tuyển dân của Chúa thì Sam-sôn lại kết bạn với kẻ thù. Cac Tl 14:11 “vừa thấy ông, người ta bèn mời ba mươi gã thanh niên để kết bạn cùng ông.” Chấp nhận kết bạn với kẻ thù, vì sao? Chắc là có nhiều lý do, nhiều cách lập luận lắm. Nhưng càng gần với người ngoại bang thì càng xa tuyển dân của Chúa. Càng sống ở đất khách thì càng xa quê nhà. Càng gần người không cùng niềm tin thì càng xa cách những người cùng niềm tin.
Vì vậy, dĩ nhiên Sam-sôn cũng không tuân thủ trách nhiệm khó khăn nhất đối với bản thân là một người sống theo luật lệ của Chúa: ông kết hôn với người ngoại, ông đi lại với phường đĩ điếm. Nói tóm một điều: Sam-sôn không làm tròn trách nhiệm đối với bản thân.
Khi không làm tròn trách nhiệm đối với bản thân thì không thể là một tấm gương cho những người chung quanh, và cũng không thể chu toàn trách nhiệm đối với dân của Chúa.
Và để làm tấm gương cho dân của Chúa thì phải có một đời sống khác hẳn họ, không đồng tình với những sai trật của họ.
B. Trách nhiệm đối với dân của Chúa.
Có trách nhiệm đối với bản thân thì mới có thể có trách nhiệm đối với dân của Chúa. Có thể hiện trách nhiệm tốt đối với bản thân thì mới có thể thực hiện tốt trách nhiệm đối với dân của Chúa. Có lo cho mình thì mới lo cho dân của Chúa. Có thương thân mới thương người. Có lo cho sự an nguy của mình mới lo cho sự an nguy của dân Chúa.
Trách nhiệm của Sam-sôn đối với tuyển dân của Chúa là gì? Đó là trách nhiệm làm một quan xét.
Sam-sôn là một quan xét. Cac Tl 15:20. “Nhằm thời kỳ dân Phi-li-tin quản hạt Y-sơ-ra-ên, thì Sam-sôn làm quan xét nơi Y-sơ-ra-ên trọn hai mươi năm”. Quan-xét là một chức vụ, với ba nhiệm vụ:
(1) Giải cứu dân Chúa.
Cac Tl 2:18. “Khi Đức Giê-hô-va dấy lên các quan xét cho Y-sơ-ra-ên, thì Đức Giê-hô-va ở cùng các quan xét đó, và trọn đời quan xét, Ngài giải cứu Y-sơ-ra-ên khỏi tay kẻ thù nghịch mình.”
Sam-sôn là ai? Là người giải cứu. Dân của Chúa cần có người giải cứu như vậy tức là họ lâm vào hoàn cảnh rất khốn khổ. Việc một quan xét phải làm là chiến đấu chống kẻ thù để giải cứu dân của Chúa; dân của Chúa hy vọng họ sẽ được sống bình an trong suốt thời gian có quan xét ở với họ.
Người giải cứu là người thấy tình trạng khốn khổ của tuyển dân, là người chiến đấu cho họ, và là người đem lại an ổn và hòa bình cho họ.
Khi nghiên cứu cuộc đời của các quan xét tiền bối của Sam-sôn, chúng ta biết họ đã nhìn thấy tình trạng của tuyển dân, họ đã chiến đấu cùng tuyển dân của Chúa. Và qua một cuộc đại thắng thì xứ được hoà bình và an ổn trong 40 năm (Cac Tl 3:11) , 80 năm (Cac Tl 3:30) , 40 năm (Cac Tl 5:31c) , (Cac Tl 8:28) …
Thời gian có một vị quan xét lãnh đạo là thời gian an ổn và hoà bình. Nhưng trong hai mươi năm Sam-sôn làm quan xét thì ngược lại, ông phải chiến đấu nhiều lần, chiến công của ông được xem là đại công, nhưng những đại công đó không dành cho dân của Chúa, chiến công không đem lại an ổn và hoà bình cho họ nhưng gây ra nhiều điều bất ổn hơn.
Cuộc đời làm quan xét của Sam-sôn gây ra nhiều vấn đề khó lý giải và nhiều bất an cho tuyển dân. Thậm chí có lần ba ngàn người trong tuyển dân đã kéo đến hỏi quan xét của mình: “Anh không biết dân Phi-li-tin là chủ chúng ta sao? Vậy, sao anh lại làm điều đó cho chúng ta?” Họ không đồng ý chiến đấu với quan xét của mình và trói quan xét lại để nộp cho người Phi-li-tin.
Họ cảm thấy để người Phi-li-tin làm chủ của họ còn an toàn hơn là để một người như Sam-sôn làm quan xét trên họ. Thật đáng buồn khi một quan xét bị chính đồng bào từ khước.
(2) Giảng giải luật pháp cho tuyển dân.
Sam-sôn là ai? Là người giảng giải luật pháp cho tuyển dân. Dân của Chúa đang đối diện với những nan đề trong lãnh vực thuộc linh lẫn trong đời thường.
Cac Tl 3:4. Đức Giê-hô-va dùng các dân tộc (dân ngoại) để thử thách dân Y-sơ-ra-ên, để “xem thử chúng nó có ý vâng theo các điều răn mà Ngài cậy Môi-se truyền cho tổ phụ chúng nó chăng.”
Muốn biết điều răn luật lệ của Chúa, phải có người giảng giải. Khuyết điểm lớn của những người có trách nhiệm đối với dân của Chúa là họ không dành thời gian để đưa dân của Chúa đến với lời Chúa. Cho nên dân của Chúa không thấu rõ luật pháp rồi đi đến tình trạng ai nấy cứ áp dụng theo hướng mình thấy là đúng.
Đọc trọn sách các quan xét, chúng ta thấy khuyết điểm này: các vị quan xét hầu như bỏ qua việc giảng giải luật pháp cho tuyển dân. Cho nên sau khi các quan xét qua đời họ lại tiếp tục sống sai lầm. Biết không đúng thì không thể nào sống đúng. Khi cộng đồng không thấm đẫm lời Chúa thì lối sống trong đời thường đầy dẫy tội lỗi.
Giảng giải luật pháp cho dân của Chúa cũng là chuyện khó đối với Sam-sôn. Vì đời sống của ông không phải là gương tốt. Cách sống của ông không thể xác chứng cho những điều ông dạy dỗ. Cho nên chúng ta thấy Sam-sôn chỉ giỏi ra câu đố và giảng giải câu đố mà thôi.
(3) Giải quyết những vấn đề đời thường cho dân của Chúa.
Một quan xét có nhiệm vụ xét xử những vụ kiện tụng. Các vị quan xét trước Sam-sôn đã thực hiện nhiệm vụ này.
Cac Tl 3:10-11 chép về quan xét Ốt-ni-ên: Thần của Đức Giê-hô-va cảm động người, người đoán xét Y-sơ-ra-ên, và đi ra chiến trận… người thắng… Xứ được hòa bình trong 40 năm.
Cac Tl 4:4-5 chép về bà Đê-bô-ra: “…dân Y-sơ-ra-ên đến cùng người để nghe sự xét đoán.”
Vị quan xét lo xét xử dân của Chúa, còn dân của Chúa đến cùng vị quan xét để nghe xét xử. Dân của Chúa trông đợi nơi vị quan xét điều gì? Đó là giải quyết những nan đề trong đời sống của họ, những rắc rối trong quan hệ của họ với nhau, bao gồm cả khải đạo lẫn phân xử và phán quyết. Đây là việc rất cần thiết cho dân của Chúa, lại rất cần thiết khi duy nhất chỉ có một vị quan xét ở giữa vòng họ .
Nếu Sam-sôn xét xử và giải quyết những vấn đề đời thường của tuyển dân, ông sẽ xét xử như thế nào? Chúng ta có thể suy đoán qua cách ông tháo gỡ những rắc rối trong mối quan hệ với người khác: báo thù, bạo lực và phô trương kèm theo những hành vi khác thường.
Bạn có trách nhiệm đối với các anh chị em trong cộng đồng Cơ-đốc không? Bạn có trách nhiệm gì?
Để có thể gánh lấy trách nhiệm và chu toàn trách nhiệm, bạn có bắt đầu tháo gỡ những vấn đề của bản thân không? Bản thân bạn có nan đề gì? Bản thân bạn vấp ngã trong những việc gì? Những điều đó cản trở bạn chu toàn trách nhiệm đối với anh chị em trong cộng đồng ra sao?
Bạn biết bạn là ai đối với Đức Chúa Trời, là ai đối với dân của Chúa, vẫn chưa đủ. Bạn cần biết bạn là ai đối với thế gian, xác thịt và ma quỷ.
3. Đối với thế gian, xác thịt và ma quỷ: Sam-sôn là ai? Bạn là ai?
Nếu đối với Đức Chúa Trời bạn là người được chọn để sử dụng cho mục đích tốt đẹp, thì đối với thế gian, xác thịt và ma quỷ bạn cũng được chọn, chọn để phá hủy mục đích của Đức Chúa Trời.
Khi Chúa tìm bạn thì ma quỷ cũng tìm bạn (‘tìm người nào nó có thể nuốt được’); Chúa nói với bạn, thế gian, xác thịt, ma quỷ cũng lên tiếng với bạn; Chúa ban phước cho bạn, thế gian, xác thịt, ma quỷ cũng sẵn sàng cho bạn nhiều thứ.
Cho nên bạn là ai? Đối với thế gian, xác thịt, và ma quỷ, bạn là người bị săn đuổi, là miếng mồi ngon.
-Thế gian là những giá trị thấy được về mặt vật chất. Là sự phô trương, là nguồn cung cấp để thoả mãn xác thịt.
-Xác thịt là một phần của bản tính con người, khi không có Chúa thì xác thịt là ngòi châm của tội lỗi.
-Ma quỷ là một lực lượng chống nghịch Đức Chúa Trời. Nếu Chúa xây thì ma quỷ phá. Chúa là sự sáng thì ma quỷ là sự tối tăm.
Vì bạn là người được Chúa dùng để chống lại thế gian, xác thịt, và ma quỷ cho nên thế gian, xác thịt và ma quỷ cũng tấn công bạn.
Sam-sôn phải đối diện với những kẻ thù thấy được là dân Phi-li-tin, là người đẹp Phi-li-tin, là người kỵ nữ, là Đa-li-la; và ông cũng phải đối diện với kẻ thù vô hình, đó là tinh thần của thế gian, là lòng ham muốn của xác thịt.
Bạn là người đang ở trong tầm ngắm, đang bị rình rập, dụ dỗ. Nếu xưa kia có những người đẹp Phi-li-tin dụ dỗ Sam-sôn thì ngày nay cũng có những người đẹp dụ dỗ bạn.
Những người đẹp xưa kia nhận được lệnh ‘hãy dụ chồng nàng’ và nàng đã ‘làm cực lòng chàng’ (Cac Tl 14:7) ; còn người đẹp Đa-li-la thì nhận được lệnh: ‘hãy ráng dụ dỗ hắn’; và nàng đã ‘làm khốn khổ ông, sức lực bèn lìa khỏi chàng’ (Cac Tl 16:9) .
Thế gian và những sản phẩm đẹp của thế gian cho bạn hưởng, hưởng là sướng chứ gì! Nhưng thật ra thế gian đang dụ dỗ và làm mất sức bạn.
Và để hưởng những điều thuộc về thế gian, bạn phải sống giống như người thế gian, phải có tinh thần thế gian, phải phản ứng như người thế gian.
Bạn và Sam-sôn phải làm kẻ thù không đội trời chung của thế gian, xác thịt và ma quỷ.
Khi nhận mình là kẻ thù thì sẽ sống khác với những con người ‘made in thegian’. Bạn không ở trong cái khuôn đó, không mang nhãn hiệu đó.
Tất nhiên bạn sẽ đối diện với những thách thức khi muốn bảo vệ bản thân và bảo vệ dân của Chúa. Bạn sẽ trở thành người sống trong thế gian nhưng xa lạ với mọi thứ gọi là đẹp trong thế gian, xa lạ với tinh thần của thế gian. Rồi tất nhiên thế gian, xác thịt và ma quỷ sẽ phản đối bạn.
Hãy nhớ, đối với thế gian, xác thịt và ma quỷ, bạn là ai? Đừng làm một con người khờ khạo trong thế gian như nhân vật nọ trong một truyện dân gian.
Trong một dịp kia anh ta được dạy khôn với ba câu nói:
(1) Là ta đây chứ ai!
(2) Anh hùng há sợ chi ai?
(3) Làm như thế mới là phải phải!
Đem ba câu nói trên áp dụng cho Sam-sôn?
Hỏi: Anh là ai mà đến chơi ở chỗ này?
Sam-sôn: Là ta đây chứ ai!
Hỏi: Anh có biết như vậy rất nguy hiểm không?
Sam-sôn: Anh hùng há sợ chi ai?
Hỏi: Người của Chúa mà bị cạo đầu, bị bắt, bị khoét mắt, bị làm nô lệ cho kẻ thù của Chúa như thế sao?
Sam-sôn: Làm như thế mới là phải phải!
IICôr 2Cr 2:11. “Đừng để cho quỷ Sa-tan thắng chúng ta, vì chúng ta chẳng phải là không biết mưu chước của chúng.”
Bài 6: BẠN ĐANG Ở ĐÂU?
Ngươi ở đâu? (SaSt 3:9b)
Bối cảnh
Sam-sôn ra đời và lớn lên trong một xã hội mà Kinh Thánh ghi lại như thế này: Cac Tl 13:1 “Dân Y-sơ-ra-ên cứ làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va, nên Đức Giê-hô-va phó chúng nó vào tay dân Phi-li-tin trọn 40 năm.”
Câu Kinh Thánh trên mô tả:
(1) Tình trạng thuộc linh của tuyển dân.
(2) Thái độ của Chúa đối với tuyển dân.
và
(3) Tình cảnh của tuyển dân.
-Thuộc linh suy đồi, tuyển dân cứ làm điều ác. Họ đã sai lầm và cứ tiếp tục sống trong sai lầm. Từng sống trong tội lỗi và cứ tiếp tục sống trong tội lỗi.
Là dân của Chúa, có điều răn, luật lệ và mạng lệnh của Chúa, nhưng họ lại đi thờ hình tượng giả dối và hư không. Họ vừa cầu Chúa nhưng cũng thờ hình tượng. Họ không chịu biệt riêng hoàn toàn ra cho Chúa.
Là dân biệt riêng ra cho Chúa, nhưng họ lại pha trộn với các dân khác qua việc sống chung, tiếp thu quan niệm và cách sống, và cuối cùng là làm sui gia, là kết tóc se tơ với dân ngoại bang.
Là dân của Chúa nhưng “dân Y-sơ-ra-ên ở chung cùng dân Ca-na-an, dân Hê-vít, dân A-mô-rít, dân Phê-nê-sít, và dân Giê-bu-sít, cưới con gái của chúng làm vợ, gả con gái mình cho con trai chúng nó, và hầu việc các thần của chúng nó” (Cac Tl 3:5-6) .
-Lúc bấy giờ dân Phi-li-tin quản hạt Y-sơ-ra-ên (Cac Tl 14:4b) . Dân của Chúa bị phó vào tay dân Phi-li-tin. Trong Cac Tl 9:7-8 cho biết dân Phi-li-tin và dân Am-môn từng ‘hà hiếp và chà nát’ dân Y-sơ-ra-ên. Trong một khoảng thời gian dài 40 năm.
Chúa đã để cho chính ngoại bang (mà tuyển dân đã làm sui) ‘chà nát và hà hiếp’ họ. Dân của Chúa phải ở trong cảnh khốn khổ trong một thời gian dài.
Trong thời gian bị ‘phó vào tay của dân ngoại bang’, Kinh Thánh mô tả xã hội của tuyển dân như sau: “Đương lúc đó, không có vua trong Y-sơ-ra-ên; ai nấy làm theo ý mình lấy làm phải.” (Cac Tl 21:15)
Dân của Chúa không có người lãnh đạo. Mỗi người sống theo ý riêng của mình, ‘ai theo đường nấy’. Họ chỉ quan tâm đến lợi ích riêng, họ làm theo ý của mình và vì lợi ích của mình.
Đây là một thời kỳ hỗn loạn và thất thường. Trong bối cảnh đen tối như vậy người ta trông mong một người giải cứu, một người làm mặt trời cho dân của Chúa. Sam-sôn được chọn để làm con người đó.
Làm một quan xét, một người có trách nhiệm trên dân của Chúa bạn và Sam-sôn không phải chỉ cần xác định mình là ai, mà cũng cần xác định cần ở đâu, cần bắt đầu từ đâu.
Bạn đang ở trong một bối cảnh như thế nào? Trong bối cảnh xã hội, bối cảnh của gia đình, của hội thánh, của nhóm nhỏ bạn đang tham gia; bối cảnh thuộc linh, bối cảnh thuộc thể của những người bạn có trách nhiệm… bạn đang ở đâu?
Tìm hiểu xem Sam-sôn ở đâu để chúng ta xác định lại chúng ta cần phải ở đâu.
1. Sống trong một bối cảnh như vậy, Sam-sôn ở đâu? Bạn ở đâu?
Dù ra đời và lớn lên trong một hoàn cảnh xã hội như vậy, nhưng Sam-sôn được gia đình quan tâm từ nhỏ và khi lớn lên Chúa ban phước cho ông.
Cac Tl 13:25: “Thần của Đức Giê-hô-va khởi cảm động người tại trong dinh Đan, giữa khoảng Xô-rê-a và Ê-ta-ôn.”
Sam-sôn thuộc về chi phái Đan là một chi phái khá đặc biệt.
Cac Tl 1:34 ghi “Dân A-mô-rít dồn người Đan ở trên núi, không cho họ xuống trũng.”
Cac Tl 5:17 trong bài ca của bà Đê-bô-ra, “Còn Đan, sao lại ở trên các chiếc tàu?”
Cac Tl 18:1: “Chi phái Đan đi tìm một địa phận đặng lập nghiệp; vì từ trước đến giờ, trong các chi phái Y-sơ-ra-ên, chi phái này chưa nhận được sản nghiệp nào hết.”
Trước khi chi phái Đan đi tìm chỗ để lập nghiệp thì họ ở tại Xô-rê-a và Ê-ta-ôn, đây là hai địa điểm rất gần nhau, Xô-rê-a cách Giê-ru-sa-lem 19km về phía tây, và dinh Đan (trại Đan) nằm giữa Xô-rê-a và Ê-ta-ôn với Giê-ru-sa-lem.
• Sam-sôn ở đâu?
1) Ở ngay trong chi phái của mình, trong trại Đan.
Mặc dù dân Y-sơ-ra-ên đang bị dân Phi-li-tin cai trị, nhưng khu vực Xô-rê-a và Ê-ta-ôn thuộc quyền kiểm soát của chi phái Đan. Chúa bắt đầu cảm động Sam-sôn ngay tại nơi ông ra đời và lớn lên. Sam-sôn cần bắt đầu ngay tại chỗ đang sống. Trại Đan là nơi mà chúng ta nghĩ rằng dân sự sẽ đến với Sam-sôn, là nơi Sam-sôn bắt đầu tập họp dân sự lại (trước nhất là chi phái của mình) để tổ chức lại hàng ngũ của họ, hướng dẫn họ và gây dựng họ.
Chỗ của bạn là chỗ nào vậy? Nơi bạn ăn học, nơi bạn sinh hoạt. Có thể nói là nơi thân thương với một số người nhưng cũng có thể là nơi xa lạ đối với một số người. Nơi bạn yêu, nhưng cũng có thể ghét. Nơi bạn có thể gắn bó nhưng cũng có thể rất thờ ơ. Nơi bạn quyết định ở lại nhưng cũng có thể bỏ đi không hẹn ngày trở lại.
Sam-sôn ở đâu?
2) Ở một nơi có nhiều cơ hội cho Chúa nhất.
Xô-rê-a và Ê-ta-ôn nằm sát biên giới với Phi-li-tin, là nơi có thể tiến công kẻ thù, cũng là nơi trấn giữ không cho kẻ thù tràn vào quê hương. Sam-sôn đang ở một nơi có nhiều cơ hội để hoàn thành trách nhiệm làm người giải cứu cho dân của Chúa.
Nhưng Sam-sôn dường như không thích nơi Chúa muốn ông dùng làm bản doanh cho sự hầu việc. Những câu chuyện trong sự nghiệp quan xét của Sam-sôn không bắt đầu từ nơi Thần của Đức Giê-hô-va cảm động ông, mà luôn luôn xảy ra ngoài khu vực Xô-rê-a và Ê-ta-ôn, ngoại trừ hai chuyện:
(1) Chuyện Sam-sôn được sinh ra cách diệu kỳ, và
(2) Chuyện Sam-sôn được chôn tại đó.
Bạn cần ở đâu và bắt đầu ở đâu? Ở nơi gần nhất, là nơi quan trọng nhất và cũng là nơi khó nhất. Nếu làm tốt ở nơi gần mình nhất thì sẽ có nhiều cơ hội để thành công ở những nơi xa hơn.
Nơi gần nhất của bạn là ở đâu? Hiện bạn đang có mặt tại nơi đó không? Hãy nhớ rằng bước khởi đầu là quan trọng. Nơi quan trọng nhất, nơi khó nhất, nơi gần bạn nhất cũng là nơi có nhiều cơ hội nhất.
Sam-sôn không quan tâm đến nơi gần nhất, không bắt đầu nơi quan trọng nhất, nơi có nhiều cơ hội nhất, nơi Chúa đặt để và ban Thần của Ngài
Nơi gần nhất, nơi quan trọng nhất mà Chúa đặt để là nơi bắt đầu cho công tác của một quan xét, dạy dỗ dân của Chúa, giải cứu dân của Chúa. Nhưng Sam-sôn lại tìm đến những nơi khác, và tại những nơi đó chẳng những ông chẳng thể dạy dỗ, chẳng thể làm gương cho ai, chẳng những ông không giải cứu được ai mà ông cần lo tự cứu lấy thân mình.
Các Quan-xét 14
Cac Tl 14:1,5. Ở Thim-na. Ở ngoài phạm vi của mình.
14:1: Sam-sôn đi xuống Thim-na, thấy một người nữ.
14:5: Sam-sôn đi xuống Thim-na với cha mẹ mình, thấy một con sư tử.
14:7: Vậy, người (Sam-sôn) đi xuống, nói với người nữ.
14:8: Sam-sôn trở lại (đi xuống) đặng cưới người nữ, thấy trong cái xác có…
14:10: Cha người đi xuống
14:19a: Sam-sôn đi xuống Ách-ca-lôn (địa phận Phi-li-tin)
14:19b: Sam-sôn trở lên về nhà cha trong tâm trạng nổi giận phừng phừng.
Các Quan-xét 15:
15:1: Sam-sôn đi thăm vợ mình (trong khi 14:20 Vợ Sam-sôn bị gả cho một người trai trẻ mà ông đã chọn làm bạn) . Thật là trớ trêu. Muốn đi thăm vợ thì phải đi xuống.
Sau khi gây ra 2 sự cố (1) câu 15:4-5 và (2) 15:6-8.
15:8: Sam-sôn đi xuống Ê-tam và ở tại hang đá Ê-tam.
15:11: Ba ngàn người Giu-đa phải đi xuống Ê-tam để giải quyết việc của Sam-sôn.
Chú ý: trong thời gian Sam-sôn ở Ách-ca-lôn là địa phận của người Phi-li-tin, và Ê-tam cũng nằm ở vùng ranh giới địa phận chi phái Giu-đa. Sam-sôn là người của chi phái Đan, đã gây tai hoạ cho chi phái khác.
Sam-sôn ở đâu?
(3) Ở những chỗ mà ông ‘đi xuống’.
Thay vì trước nhất ở tại trại Đan, ở trong chi phái của mình, ở trong sự kiểm soát và cảm động của Chúa, thì Sam-sôn lại đi xuống Thim-na. (Bản đồ)
Thim-na là một địa điểm nằm ở ranh giới giữa Giu-đa và Đan, đây là nơi người Phi-li-tin kiểm soát.
Giữa nơi Xô-rê-a và Thim-na cách nhau không xa, bên này thuộc vùng chi phái Giu-đa, bên kia là vùng của người Phi-li-tin.
Kinh Thánh dùng chữ ‘đi xuống’ nhiều lần, điều nầy chứng tỏ trước đó Sam-sôn đang ở chỗ phía trên, nơi cao hơn. Dan Ds 14:2. Sam-sôn trở lên.
Sam-sôn đi xuống Thim-na nhiều lần, rồi đi xuống Ách-ca-lôn, rồi đi xuống Ê-tam.
Việc Sam-sôn ‘đi xuống’ đã làm cho cha mẹ ông cũng phải đi xuống theo, và dân sự mà ông chịu trách nhiệm cũng ‘đi xuống’ luôn.
Đời thuộc linh của một người ‘đi xuống’ ảnh hưởng rất lớn không phải chỉ đối với bản thân, mà đối với cả những người mình chịu trách nhiệm.
Đối với bản thân đó là bước đầu của một đời sống trượt dốc, từ vấp ngã sẽ đi đến sa ngã, từ lạc cho đến lạc mất, từ hư cho đến hư hỏng, từ xấu cho đến xấu xa. Qua Sam-sôn ta thấy sự trượt dốc đó. Từ việc cưới hỏi sai lầm, đến việc sống với kỵ nữ, và sống không hợp pháp với Đa-li-la.
Khi bản thân đã ‘đi xuống’ rồi thì không có lý do gì bắt người khác phải đi lên. Bản thân thì ‘xuôi dòng’ mà đòi người khác ‘ngược dòng’ thì thật là lố bịch.
Có bao giờ bạn nói người khác làm một điều tốt trong khi bản thân bạn lại làm ngược lại không? Bạn khuyên anh em mình ‘đừng làm theo đời này’ nhưng bạn lại ‘cứ làm theo đời này’, bạn nói ‘đừng xuống đó, phải đi lên trên kia’ nhưng bạn lại ‘từ ở trên kia đi xuống chỗ đó’.
Các Quan-xét 16:
Câu 1-3: Sam-sôn đi đến Ga-xa.
Ga-xa là địa phận của người Phi-li-tin (Thời xưa chi phái Giu-đa từng chinh phục Ga-xa “người Giu-đa cũng chiếm lấy Ga-xa cùng địa phận nó, Ách-ca-lôn cùng địa phận nó, và Éc-rôn cùng địa phận nó…” (Cac Tl 1:18) . Ga-xa là một trong những vùng trù phú. Cho nên khi có chiến tranh thì Ga-xa là một trong những mục tiêu để kẻ thù tấn công và tiến chiếm. 6:3-4: “Khi dân Y-sơ-ra-ên đã gieo giống, dân Ma-đi-an với dân A-mê-léc, và người phương đông đi lên đánh Y-sơ-ra-ên, đóng trại đối ngang người, phá hoại mùa màng của xứ cho đến Ga-xa, và không để lại trong dân Y-sơ-ra-ên lương thực gì, hoạc chiên, bò hay là lừa.”
Thời Sam-sôn làm quan xét, Ga-xa, Ách-ca-lôn, Ách-đốt là ba thành phố chính của người Phi-li-tin.
Sam-sôn ở đâu?
(4) Ở Ga-xa, ngay tại thủ phủ của kẻ thù. Ở nơi nguy hiểm nhất.
Sam-sôn đi vào đất của kẻ thù để làm gì? Phải chăng con người như Sam-sôn muốn đi đâu thì đi. Phải chăng Sam-sôn muốn ‘dọc ngang nào biết trên đời có ai’?
Ông dám đến ngay trung tâm đầu não của kẻ thù, kẻ thù của dân tộc (Ga-xa) và cũng dám vào nhà một kỵ nữ (kẻ thù của đời sống thuộc thể và thuộc linh, kẻ thù của chức vụ) . Cũng tại Ga-xa kẻ thù muốn lấy mạng sống của Sam-sôn.
Từng bị kẻ thù truy đuổi trên đất của mình đã là nguy hiểm (chương 15) ; vậy mà bây giờ lại đi vào trong đất kẻ thù mà ngủ, rồi bị kẻ thù bao vây để tìm cách giết đi thì nguy hiểm vô cùng.
Vì sao Sam-sôn lại dám ở một nơi nguy hiểm như vậy? Trong chiến trận mà chủ tướng xông pha nơi tuyến đầu, dám xông vào nơi nguy hiểm nhất thì sẽ khích lệ tinh thần của binh sĩ dưới trướng của mình.
Còn Sam-sôn, xông vào nơi nguy hiểm nhất chẳng những không khích lệ được ai mà còn làm nản lòng những người mà ông phải chịu trách nhiệm trên họ.
Thật là điên rồ khi dám đến và ở một nơi như vậy. Thật là thiếu sáng suốt khi dám đi đến và ở một nơi không được đến.
Người ta có hai quan niệm:
(1) Cơ-đốc nhân đến La-mã thì sống như người La-mã.
(2) Nhưng một Cơ-đốc nhân đến La-mã sẽ sống như một Cơ-đốc nhân tại La-mã. Còn Sam-sôn đã đi đến một nơi và thay vì sống như một người của Chúa, ông lại sống giống như những con người tội lỗi tại nơi đó.
Nếu không phải vì bắt cọp thì bạn đừng dại dột xông hang hùm. Cũng đừng lập luận rằng đi vào quán cà-phê ôm, hoặc quán Karaoke, hoặc vũ trường để mà làm chứng. Dám đi vào và ở những nơi đó, bạn sẽ ‘từ bị thương đến chết’ chớ không có chuyện ‘cám ơn Chúa cho con trở về bình an vô sự’’.
Câu 4. Sam-sôn ở trong trũng Sô-réc (Thung Lũng Vườn Nho) cách Giê-ru-sa-lem 21km về phía tây nam. Nhìn vào bản đồ chúng ta sẽ thấy con sông Sô-réc chảy ngang qua địa phận Phi-li-tin và Giu-đa. Dù chưa xác định được trũng Sô-réc nằm ở đâu bên con sông này, nhưng tại Thung Lũng Vườn Nho, bên cạnh người đẹp Đa-li-la ta thấy còn có xuất hiện các trưởng lão Phi-li-tin, có thể cho chúng ta suy đoán Thung Lũng Vườn Nho (trũng Sô-réc) nằm rất gần hoặc ở bên trong địa phận Phi-li-tin.
Sam-sôn ở đâu?
(5) Ở chỗ an nhàn, ở nơi hưởng thụ
Một người như Sam-sôn cần một chỗ để yên lặng, để suy ngẫm, để nghỉ ngơi, để có người tương giao là đúng. Nhưng chỗ đó không phải là chỗ của nàng Đa-li-la, người đó không phải là nàng Đa-li-la.
Tương giao và nghỉ ngơi của một người biệt riêng ra cho Chúa, có trách nhiệm trên dân của Chúa có phải là những “chỗ của nàng Đa-li-la” không?
Ở trên đầu gối nàng Đa-li-la - có phải là chỗ lý tưởng không? Có phải là chỗ an toàn cho người như Sam-sôn không?
Bạn phải cẩn trọng trong việc nghỉ ngơi và giải trí. Chúa không cấm bạn nghỉ ngơi và giải trí. Nhưng bạn nghỉ ngơi giải trí ở đâu? Nơi đó có dụ dỗ bạn phạm tội không? Nơi đó có làm cho bạn mất năng lực thuộc linh không? Nơi đó có làm cho bạn trở thành nô lệ không?
Cuối cùng Sam-sôn ở đâu?
(6) Ở trong nơi cần được giải cứu.
Sam-sôn ở trong ngục - làm tù nhân, làm nô lệ. Chỗ đó có phải là chỗ của Sam-sôn không? Chàng đã từng ở Ga-xa, và bây giờ phải ở luôn tại đó cho hết cuộc đời. Người có nhiệm vụ giải cứu người khác bây giờ cần được giải cứu.
16:22-27. Sam-sôn ở đâu? Chàng ở trong đền thờ thần Đa-gôn, ông phải gặp người ông không muốn gặp, nghe những điều ông không muốn nghe, làm điều ông không muốn làm.
Với sức lực Chúa cho, đáng lẽ trong 20 năm làm quan xét ông phải giải cứu dân của Chúa, phải phá hủy đền thờ thần Đa-gôn này rồi. Bây giờ trong năm thứ 20, ông bị giam giữ ở nơi đó, trở thành người cần được giải cứu cả về tâm linh lẫn cuộc sống.
Có thể bạn chưa đến những năm cuối của những cơ hội Chúa cho. Bạn đang ở đâu? Nơi bạn ở là nơi cứu người khác hay là nơi cần người khác cứu?
Bài 7: BẠN ĐANG TÌM KIẾM GÌ?
Chúng ta chẳng chăm sự thấy được, nhưng chăm sự không thấy được; vì những sự thấy được chỉ là tạm thời, mà sự không thấy được là đời đời không cùng.
(IICôr 2Cr 4:18)
Trong cuộc đời của Sam-sôn, dường như những điều ông không tìm thì lại có; còn những điều ông đi tìm thì bị mất tất cả.
1. Không tìm kiếm điều đáng phải tìm.
Dường như Sam-sôn không tìm cho mình chức vụ quan xét; và dường như ông cũng không tìm kiếm cuộc sống của một Na-xi-rê. Khi sinh ra ông đã là người như thế rồi, vì Chúa đã chọn ông từ trong lòng mẹ và chỉ định ông là một Na-xi-rê.
Từ nhỏ đến khi lớn lên, Sam-sôn được cha mẹ dạy dỗ thế nào chúng ta không rõ, có một chi tiết cho thấy Sam-sôn chấp nhận việc dạy dỗ của cha mẹ và ý muốn của Chúa, đó là ông không cắt tóc. Tóc trên đầu ông gồm bảy lọn tóc được thắt lại (Cac Tl 16:13c) . Chàng chấp nhận mình là Na-xi-rê, là quan xét.
-Là một quan xét thì nhiệm vụ của Sam-sôn là gì?
(1) Là người giải cứu tuyển dân.
(2) Là người giảng giải luật pháp cho tuyển dân.
(3) Là người giải quyết những vấn đề đời thường cho tuyển dân.
Nếu nhiệm vụ của một quan xét là như vậy, thì Sam-sôn cần gì và phải tìm kiếm gì?
(1) Cần có sự khôn ngoan.
(2) Cần có lời Chúa, cần có năng lực thuộc linh.
(3) Cần kinh nghiệm sống…
2. Cần tìm kiếm kinh nghiệm
Khi Sam-sôn bắt đầu làm quan xét ông có biết rằng trước ông có 12 quan xét (nếu kể cả bà Đê-bô-ra và ông Ba-rác là quan xét) . Ông cần tìm kiếm gì? Cần tìm kiếm kinh nghiệm của những người đi trước.
Dường như Sam-sôn đã bỏ qua, không chịu tìm kiếm kinh nghiệm của những người đi trước nên phải trả giá nhiều hơn trong cuộc sống.
Người ta có thể học được kinh nghiệm mà không phải trả giá quá đắt, đó là kinh nghiệm của những người đi trước, cả thất bại lẫn thành công. Bạn có tìm kiếm kinh nghiệm của những bậc tiền bối thuộc linh không? Bạn tìm ở đâu?
3. Cần tìm quan xét cho mình
Sam-sôn làm quan xét nhưng lại không có ai làm quan xét trên ông. Chịu trách nhiệm về nhiều người khác, nhưng Sam-sôn lại không chịu trách nhiệm với ai cả. Sam-sôn cần tìm một quan xét cho mình. Thậm chí có thể nói mỗi lãnh vực cần một người quan xét. Nhưng Sam-sôn cũng không tìm kiếm một người nào để làm quan xét trên ông, chứ đừng nói là nhiều người.
Thế thì, Sam-sôn đi tìm điều gì? Đọc trong Kinh Thánh chúng ta sẽ nhận ra Sam-sôn đi tìm điều gì?
Tìm điều không nên tìm.
(1) Tìm điều mình thấy.
14:1. Sam-sôn đi xuống Thim-na, thấy một người nữ trong vòng các con gái Phi-li-tin.
14:2. Sam-sôn nói với cha mẹ: “Con có thấy tại Thim-na một người nữ trong vòng các con gái Phi-li-tin”
14:3. Sam-sôn nói với cha mẹ: “Nó (nàng) đẹp mắt con”
Chàng tìm gì? Tìm người ông thấy đẹp. Sam-sôn tìm người yêu hay tìm người đẹp? Thấy đẹp là chịu liền. Nhưng ông chỉ thấy người đẹp mà không chịu thấy đó là người Phi-li-tin. Khi tìm thấy người đẹp rồi thì chẳng cần tìm kiếm ý muốn Chúa nữa.
Khi bạn cần tình yêu, cần bạn đời, cần một gia đình mà tiêu chuẩn và sự tìm kiếm của bạn là “đẹp - như -người - nữ - Phi-li-tin” thì bạn chẳng khác gì người thế gian.
Nhiều người nói, tôi không cần người đẹp, tôi chỉ cần người yêu mến Chúa. Nói thì có vẻ ngược dòng, nhưng thật sự trong thâm tâm thì vẫn xuôi dòng, đẹp vẫn là ưu tiên.
Sống theo ý Chúa là ngược dòng, còn theo ý mình là xuôi dòng. Sống theo ý Chúa thì không giống ai, còn theo ý mình thì ai cũng như ai.
Thế giới vật chất không chỉ có người đẹp bề ngoài mà còn có rất nhiều cái đẹp khác. Con người trong thế giới vật chất, chuộng vật chất đua nhau đi tìm cái đẹp, say mê trong cái đẹp. Sự mê tham của mắt có gắn liền với những cái đẹp trong thế gian. Sam-sôn còn tìm gì nữa?
(2) Sam-sôn tìm điều không cần tìm.
Và thấy điều không nên thấy.
14:8-9. Sam-sôn từng giết một con sư tử. Rồi về sau Sam-sôn lại đi tìm cái thây sư tử đó. Sam-sôn đi tìm thứ ông không cần tìm. Có lẽ Sam-sôn nghĩ: “Mình chỉ đứng đằng xa cái thây sư tử cho khỏi bị ô uế.”
14:8b. Rồi ông lại thấy trong xác sư tử có một đàn ong và mật. Sam-sôn lại thấy điều ông không nên thấy, và đến gần những thứ ông không được đến gần. Và cuối cùng:
14:9: Sam-sôn bụm mật trong tay, vừa đi vừa ăn. Đến gần cha mẹ, đưa cho cha mẹ ăn.
Điều ông không nên tìm và điều ông không nên thấy đã khiến ông đánh mất phẩm chất Na-xi-rê.
Có những thứ bạn không cần tìm và không nên thấy. Đừng đi tìm và cũng đừng ráng để mà thấy những thứ mà người ngoại bang thường tìm và luôn luôn thấy.
Khi bạn không thèm tìm kiếm và không muốn nhìn thấy những thứ trần gian khoái tìm và thích nhìn thấy là lúc bạn sẽ bị người thế gian chế giễu chê bai bạn. Nào là đạo đức giả, nào là quê quá, ngu dại quá…
Nhưng khi bạn khoái tìm kiếm những điều mà người của Chúa không nên tìm và thích nhìn thấy thứ bạn không nên thấy, thì dù từ xa, bạn đã bắt đầu giống người thế gian rồi, bạn sẽ bị dẫn dụ đến gần rồi bị ô uế như người thế gian.
Chỉ đến gần cái thây sư tử, chỉ ăn chút mật ong đã làm cho ông Na-xi-rê thành ra ô uế. Có lẽ ông suy nghĩ: Ô uế một tí thì về nhà tẩy sạch là xong. Chuyện nhỏ mà!
Nhưng ông quên rằng chuyện nhỏ mới nảy sinh ra chuyện to.
(3) Tìm sự háo danh, háo thắng.
Sam-sôn còn tìm gì nữa? Sam-sôn không tìm bạn, nhưng khi vừa thấy ông nhà gái đã mời 30 thanh niên đến để kết bạn với ông. Còn Sam-sôn cũng chẳng cần tìm hiểu xem 30 người đó ra sao. Vừa thấy họ là ông kết bạn ngay.
Ông tìm kiếm gì nơi những người bạn này ? Qua câu đố hóc búa ông tìm cách tỏ ra mình hơn họ và tìm 30 bộ áo lễ. Mới kết bạn mà đã tỏ ra háo danh, háo thắng hết sức nông nổi và bốc đồng.
Chính vì háo danh và háo thắng mà trong suốt bảy ngày đám cưới của mình Sam-sôn bị người đẹp Phi-li-tin hết khóc lóc, đến kể lể, hết nói nhẹ đến nói nặng làm cho ông cực lòng. Cuối cùng chú rể phản bội chính mình, cô dâu phản bội chú rể. Tiệc cưới kết thúc trong cay đắng. Mất danh dự, mất vợ. Thế là Sam-sôn bỏ đi tìm cách trả thù.
(4) Tìm những chuyện khác thường
Sam-sôn luôn luôn tìm kiếm những chuyện khác thường. Nếu thời đó có một chương trình trên TV, chắc sẽ có chương trình truyền hình với tên gọi là Hành Động, trong đó có mục “Sam-sôn đã làm điều đó như thế nào?”
“Làm thế nào để bắt 300 con chó rừng? Làm thế nào đơn thương độc mã mà bắt được 300 con chó rừng? Làm cách nào để đốt rụi những cánh đồng lúa mì và vườn ô-li-ve ở Thim-na? Làm thế nào 3000 người mới trói được một người? Làm thế nào mà chỉ với một cái hàm lừa có thể chống chọi với 1000 người?”
“Mời các bạn đến với chương trình hành động của Sam-sôn.”
(5) Tìm tình dục
-Tìm tình yêu không xong, Sam-sôn chuyển sang chuyện tìm tình dục. Trong chương 16, Sam-sôn tự ý đi đến Ga-xa là thành phố của người Phi-li-tin, tại đây ông có quan hệ với hai người nữ Phi-li-tin: một kỵ nữ vô danh, và một người nữa là nàng Đa-li-la.
Đối với người thời đó, cả dân của Chúa lẫn dân Phi-li-tin, giải quyết tình dục ngoài hôn nhân là chuyện thường tình. Cho nên Sam-sôn chẳng những phải dạy dân của Chúa biết thờ phượng Chân Thần, biết phá huỷ hình tượng tà thần mà ông còn phải dạy họ sống đạo đức theo điều răn, luật lệ của Chúa. Là quan xét, Sam-sôn phải là người tiên phong.
Sam-sôn đánh phá chống lại người Phi-li-tin, nhưng lại yêu người đẹp Phi-li-tin, lấy vợ người Phi-li-tin, kết bạn với người Phi-li-tin, đi du lịch trên đất người Phi-li-tin và chung chạ với kỵ nữ người Phi-li-tin. Sam-sôn không thờ thần tượng của người Phi-li-tin, nhưng thờ thần sắc đẹp và thần lạc thú. Sam-sôn thù ghét, giận dữ và chống lại kẻ thù bên ngoài bằng bất cứ giá nào, nhưng lại dung dưỡng cho kẻ thù bên trong đời sống của ông.
Tưởng đâu Sam-sôn sẽ dẫn tuyển dân vượt qua mọi trở lực, nhưng ông đã buông xuôi tất cả trong cách sống giống như mọi người. Ông quên rằng ông phải là người đi trước làm gương tốt cho tuyển dân.
Khi quen với Đa-li-la, có lẽ Sam-sôn không phải vì tình dục mà có cả tình yêu nữa. Đa-li-la có phải là một kỵ nữ hay không thì chúng ta không rõ. Cô ta có đẹp hay không thì Kinh Thánh cũng không đề cập đến. Nhưng chắc chắn Đa-li-la là một người có mối quan hệ với các quan trưởng Phi-li-tin, một người tham tiền, một người sẵn sàng phản bội vì tiền
Nhưng Kinh Thánh cho biết Sam-sôn yêu mến Đa-li-la. Làm sao Sam-sôn lại có thể tìm đến một người nữ như thế? Làm sao có thể nói: “Anh yêu em” với Đa-li-la. Chính Đa-li-la đã dùng lời của Sam-sôn để nói lại với ông. Trong 16:15, Đa-li-la nói: “Làm sao chàng nói được rằng: anh yêu em! Vì lòng chàng chẳng thật lòng cùng em? Chàng đã gạt em ba lần, và không chịu nói cho em biết nhờ đâu có sức mạnh phi thường trong chàng.”
Và lần này, trong hồi kết, Sam-sôn vẫn ‘chứng nào tật nấy’. Từ bài học cay đắng năm xưa ông vẫn không tìm ra lời giải. Sam-sôn vẫn tìm những thứ không nên tìm, vẫn yêu người không nên yêu, vẫn tìm những chuyện khác thường, vẫn bốc đồng, nông nỗi và thêm vào đó là tánh khinh xuất. Chẳng lẽ ông lại tính làm thêm một chương trình TV với tên gọi là Hành Động!
Có người cho rằng có thể Sam-sôn muốn Đa-li-la giải thoát ông khỏi địa vị làm người Na-xi-rê, để ông trở thành một con người bình thường như bao người khác, để ông có thể xuôi dòng như mọi người. Thật ra dù làm một Na-xi-rê thì ông cũng chẳng sống đúng theo lời nguyền của một Na-xi-rê, chẳng kiêng dè một thứ gì.
Gie Gr 45:5. “Ngươi còn tìm việc lớn cho mình hay sao? Chớ có tìm kiếm.” Những việc gọi là lớn mà Sam-sôn tìm kiếm là gì? Việc lớn mà bạn đang tìm kiếm là gì?
Kết quả của việc cứ lo tìm kiếm theo ý riêng và không chịu tìm kiếm điều Chúa muốn.
Một người (1) chỉ lo tìm kiếm những điều không nên tìm, và (2) không chịu tìm kiếm điều đáng phải tìm kiếm.
Sẽ gặp chuyện gì? Sẽ gặt những hậu quả mà người đó không bao giờ muốn gánh chịu.
Trong cuộc đời của mình, Sam-sôn cứ lo đi tìm điều ông không được phép tìm, lại không chịu tìm kiếm những điều đáng ra ông phải tìm. Cho đến một thời điểm điều ông tìm kiếm theo ý riêng đem lại hậu quả đau đớn tai hại cho bản thân.
-Ông trở thành một người yếu như bao người khác. Sam-sôn không ngờ Đa-li-la có âm mưu trước rồi, không ngờ Đa-li-la phản bội ông bằng mấy nhát kéo. Chúa muốn bạn trở thành một người có năng lực cho Ngài, nhưng bạn cũng có thể trở thành một người vô dụng trước mặt Chúa nếu bạn cứ muốn xuôi dòng, muốn làm theo ý mình, làm theo tư dục, làm như người đời…
-Ông trở thành người không biết rằng Đức Giê-hô-va đã lìa khỏi ông. Sam-sôn không hề muốn điều này xảy ra. Đánh mất Chúa, bị Chúa từ bỏ mà ông chẳng biết. Sự kiên nhẫn và nhân từ của Chúa có giới hạn. Ngài vẫn có thể có những cách khác, có những người khác để lo cho dân của Ngài, nếu bạn không lo chu toàn trách nhiệm Chúa giao.
-Ông trở thành tù binh. Người thất trận, bị kẻ thù khuất phục. Chúa không thể bảo vệ bạn khi bạn cứ lợi dụng tình yêu của Ngài để sống theo ý riêng. Hoặc bạn đắc thắng hoặc bạn thất bại. Hoặc bạn trở thành người làm rạng rỡ danh Chúa, hoặc bạn là người làm ô danh Chúa.
-Ông trở thành người mù. Người tàn phế. Người dẫn đường cho người khác bây giờ phải nhờ một đứa trẻ dẫn đường cho mình. Người có cơ hội giúp cho người khác ‘nhìn thấy’ bây giờ bị người khác làm cho ‘mù loà’. Người dùng mắt trần của mình đi tìm những điều mình thích thấy, thích tìm, bây giờ mất cả đôi mắt.
-Ông trở thành người nô lệ trong ngục. Người có sứ mạng đi giải cứu dân mình giờ đây trở thành người nô lệ, và cần người khác giải cứu hoặc phải tự cứu lấy mình.
-Ông trở thành người làm trò vui cho kẻ thù. Nếu lo tìm kiếm và lo xây dựng niềm vui cho dân của mình thì giờ này đâu có phải làm hề cho kẻ thù.
Giờ đây Sam-sôn tìm kiếm điều gì?
Chàng tìm kiếm Chúa. Chàng tìm kiếm sức mạnh đã mất. Chàng tìm kiếm sự báo thù dù phải chết chung với kẻ thù.
Trong Truyện Kiều Nguyễn Du mô tả cái chết của người anh hùng Từ Hải, bỏ lý tưởng, ra hàng, nhưng kẻ thù thất hứa, Từ Hải phải chết đứng. Còn Sam-sôn, người anh hùng miễn cưỡng phải chết chung với kẻ thù.
Là một người được Chúa chọn, có hai mươi năm làm quan xét, đáng lẽ Sam-sôn phải dẫn dắt dân của Chúa tìm kiếm Chúa và ý của Ngài nhưng đời sống thuộc linh của ông không hơn gì họ. Thật đáng trách.
Trong khi tuyển dân bỏ Chúa đi tìm những thần ngoại bang thì Sam-sôn đi tìm những người nữ ngoại bang bất chấp ý muốn của Chúa đối với đời sống của mình.
Trong khi tuyển dân thất thế mới lo tìm kiếm Chúa, và kêu cầu với Ngài thì Sam-sôn chỉ tìm kiếm Chúa khi mạt vận cùng đường.
Trong khi tuyển dân Chúa tìm kiếm sự thỏa hiệp và cam chịu sự cai trị hà khắc của người Phi-li-tin thì Sam-sôn cũng sẵn sàng kết bạn với kẻ thù và không chịu tìm cách giải cứu tuyển dân thoát khỏi ách thống trị của người Phi-li-tin. Phải chăng đây là hình ảnh cả một cộng đoàn và một cá nhân tìm kiếm sự an nhàn trong đời sống thay vì chiến đấu theo lời Chúa.
Ngược dòng lịch sử Cac Tl 1:18,19: trong thời chinh phục Ca-na-an, chi phái Giu-đa đạt được những thắng lợi tại các thành phố ven biển ở Ga-xa, Ách-ca-lôn và Éc-lôn, nhưng họ lại không thể đánh bật được kẻ thù ra khỏi vùng đó vì dân đó có những xe bằng sắt, trong khi Kinh Thánh chép “Đức Giê-hô-va ở cùng người Giu-đa”.
1:2: Người Bên-gia-min không đuổi được người Giê-bu-sít ra khỏi Giê-ru-sa-lem, nên dân Giê-bu-sít hãy còn ở chung cùng con cháu Bên-gia-min cho đến ngày nay.
Vì sao? 2:1-5: Vì dân Chúa tìm kiếm sự thoả hiệp với kẻ thù. Chúa đã nói: “Ta sẽ chẳng hề huỷ giao-ước ta đã lập cùng các ngươi; còn các ngươi, chớ lập giao-ước cùng dân xứ nầy; hãy phá hủy bàn thờ của chúng nó. Song các ngươi không có vâng theo lời phán của ta… tại sao các ngươi đã làm điều đó?” (2:1-3) .
Không tìm kiếm sự trung thành tuyệt đối với Chúa, đi tìm kiếm sự an nhàn dễ chịu qua sự thỏa hiệp với kẻ thù thì sẽ không bao giờ có chiến thắng trọn vẹn. Thay vì ăn mừng toàn thắng thì sẽ là khóc lóc đắng cay trong thất bại.
Bài 8: BẠN QUYẾT ĐỊNH GÌ?
(ISu1Sb 19:10-16)
Giả sử Chúa dùng bạn làm một quan xét, Kinh Thánh sẽ ghi lại về cuộc đời bạn như thế nào? Điều đó tùy thuộc vào quyết định và cách sống của bạn. Có hai điều bạn nên quyết định:
(1) Quyết định làm quan xét cho người khác.
(2) Quyết định tìm người làm quan xét cho mình.
1. Quyết định trở nên một quan xét.
Chúa quyết định tuyển chọn bạn và trang bị cho bạn làm quan xét cho người khác, cho một nhóm... Phần của bạn là quyết định vâng theo ý muốn của Chúa.
Vấn đề là bạn thấy mình được làm quan xét hoặc thấy mình bị làm quan xét . Tôi được Chúa chọn, được Chúa dùng, tôi vui quá, cám ơn Chúa. Hoặc là, thôi chết tôi rồi, tôi bị Chúa bắt làm quan xét, thật là rầu quá. Sao kỳ vậy Chúa ơi? Con mất tự do rồi.
Sự suy nghĩ và thái độ của bạn đối với vấn đề làm quan xét (được hoặc bị) có thể khiến bạn trở thành một quan xét có ảnh hưởng tốt hoặc trở thành một quan xét gây ảnh hưởng xấu.
Người thấy mình được Chúa dùng là người biết mình đang hưởng đặc ân, sẽ hết lòng để gánh lấy trách nhiệm và chu toàn trách nhiệm Chúa giao.
Người biết mình được Chúa chọn và sử dụng sẽ thấy mình là người có giá trị trước mặt Chúa và sẽ lo gìn giữ giá trị của đời sống mình và hoàn thành trách nhiệm Chúa giao cho.
Cho nên điều bạn có thể quyết định là khẳng định mình là người được Chúa chọn, được Chúa dùng, rồi bạn quyết định sống để làm một quan xét có ảnh hưởng tốt trên người khác. Tuy nhiên để làm một quan xét tốt, có ảnh hưởng trên người khác, bạn phải trả giá.
Như vậy bạn cần quyết định trả giá. Bạn có chịu trả giá không?
2. Quyết định trả giá để làm một quan xét tốt
Cái giá phải trả để làm một quan xét tốt là gì? Có phải là con dòng cháu giống không? Có phải được Chúa ban phước không? Có phải được Thần của Đức Giê-hô-va cảm động không? Có phải có sức mạnh tài trí hơn người không?
Đấy là những điều kiện có sẵn trong Sam-sôn, ông không phải trả giá gì cả, vì Chúa đã ban cho ông mọi điều kiện thuận lợi đó rồi.
Nhưng cái giá để làm quan xét tốt nằm gọn trong hai chữ: kỷ luật. Kỷ luật là cái giá bạn phải trả để trở nên một quan xét có ảnh hưởng tốt. Cho nên điều bạn cần là:
(1) Quyết định sống kỷ luật.
Nan đề lớn trong cuộc đời là ai cũng muốn như ai. Con người đi tìm sự giống nhau trong mọi chuyện. Là một người có trách nhiệm trên người khác bạn phải sống khác người (khác thường). Sống ngược dòng, như hình ảnh con cá lội ngược dòng, sẽ làm cho bạn có ảnh hưởng tốt trên người khác. Muốn vậy bạn phải nghiêm chỉnh áp dụng kỷ luật đối với bản thân.
Kỷ luật trong tương giao, kỷ luật trong tình cảm, kỷ luật trong quan hệ, trong tiếp xúc. Nói chung là có một đời sống có kỷ luật. Muốn ngược dòng phải có nếp sống kỷ luật.
(a) Kỷ luật trong tương giao với Chúa
Kinh Thánh ghi lại hai trường hợp Sam-sôn kêu cầu với Chúa:
Trường hợp 1. 15:18. Khi ông khát nước quá đỗi, ông cầu khẩn Đức Giê-hô-va.
Trường hợp 2. 16:28. Khi ở trong đền thờ Đa-gôn. “Chúa Giê-hô-va ôi! Xin Ngài hãy nhớ lại tôi. Hỡi Đức Chúa Trời! Xin ban sức lực cho tôi chỉ lần này mà thôi…”
Dù là một người được Chúa chọn, được Chúa ban phước và ở cùng, nhưng mối tương giao của Sam-sôn với Chúa rất lỏng lẻo. Khi cần kíp thì mới lo nhờ cậy Chúa.
Trong cuộc sống của bạn, Chúa cần bạn hay là bạn cần Chúa? Bạn cần nói với Chúa hay Chúa cần nói với bạn. Cả hai đều cần. Nhưng mục đích của việc tương giao với Chúa là gì? Sam-sôn chỉ thấy cần Chúa khi ông cùng đường bí lối.
Trong tương giao với Chúa, Sam-sôn chỉ ‘tương giao’ theo kiểu ‘sau khi’. Sau khi ông đã quyết định, sau khi đã trả thù, sau khi đã đánh nhau một trận tơi bời, sau khi đã bị bắt giam, bị hành hạ và bị dẫn ra làm trò. Tìm sự tương giao với Chúa ‘sau khi mọi sự đã rồi’, ‘sau khi tiền mất tật mang’.
Kỷ luật trong tương giao với Chúa là đến với Chúa trước khi đến với con người; nói với Chúa trước khi nói với con người; giải quyết với Chúa trước khi giải quyết với con người. Kỷ luật trong tương giao với Chúa phải là ưu tiên hàng đầu. Đây là thách thức cho những ai muốn ngược dòng.
Chúng ta thường đặt Chúa trước những chuyện đã rồi. Chúng ta ‘tương giao với Chúa’ theo kiểu: Chúa ơi xin giúp con: đây là người đẹp con lỡ quen, người con lỡ yêu, xương sườn con lỡ ráp, nghề con lỡ làm, tiền con lỡ đưa, hàng con lỡ nhập. Bây giờ xin Chúa giúp, lẽ nào con phải chết và sa vào tay những “kẻ không chịu cắt bì sao?” (15:18). Người sống theo kiểu như vậy không hề có sự tương giao đích thực.
Chính vì không ưu tiên trong tương giao với Chúa, không thật sự ở trong mối tương giao với Chúa mà Sam-sôn trở thành người tự định đoạt đời mình. Tương lai ở trong tay Sam-sôn chứ không phải trong tay Chúa. Khi không có mối tương giao đích thực với Chúa thì không thể dâng tương lai cho Chúa.
Bạn dâng tương lai cho Chúa khi bạn đưa tờ giấy trắng cho Chúa, chờ Ngài ghi ra mọi điều theo ý Ngài, còn bạn chỉ ký tên sẵn ở cuối trang, khác hẳn việc bạn viết đủ thứ trong trang giấy và buộc Chúa ký duyệt ở cuối trang.
Kỷ luật trong tương giao với Chúa cũng sẽ giúp bạn sống giống như Đấng bạn tương giao. Sam-sôn không thể có những phản ứng giống như Chúa. Vì tuy là người của Chúa nhưng ông rất xa cách Chúa vì ông ít khi tương giao với Chúa. Cho nên cách sống của Sam-sôn giống với con người thời đó thay vì giống Chúa. Ông sống theo tiêu chuẩn và giá trị của con người thay vì theo tiêu chuẩn và giá trị của Chúa.
(b) Kỷ luật trong tương giao với nhau
Trong quan hệ với người khác cũng rất cần có kỷ luật. Trong cộng đồng tuyển dân, Sam-sôn không có bạn thân. Có lẽ vai trò của một Na-xi-rê và địa vị của người làm quan xét làm cho ông khó có bạn bè. Sam-sôn mạnh hơn mọi người, tóc dài hơn mọi người, là quan xét trên mọi người, cho nên khó có ai dám gần, hoặc ông khó mà gần được ai. Nói ra thì có vẻ có lý, nhưng ở vị trí và vai trò của Sam-sôn mà kết bạn và gần gũi với dân ngoại, với kẻ thù phải là điều khó hơn chứ! Nhưng…
Có một người bạn tốt hay không, một phần là do nơi kỷ luật trong quan hệ với con người. Cuộc đời của Sam-sôn dường như không có một bạn tốt nào, cho nên ông không có người cộng sự. Đáng lẽ, trong vai trò quan xét, ông phải có những người cùng chí hướng và cùng cộng tác.
Cũng may là không có ai đồng công với Sam-sôn (vì sẽ bị lây nhiễm cách sống của ông) . Tuy nhiên nếu Sam-sôn sống theo ý muốn của Chúa thì chúng ta có quyền hi vọng không phải chỉ mỗi mình ông làm việc, mà cả một nhóm gồm nhiều người cùng làm việc với nhau và Sam-sôn sẽ huấn luyện họ.
Không có bạn cùng niềm tin thì không có người để tâm sự về đời sống tâm linh, để chia sẻ những ước vọng, những khải tượng Chúa ban cho và không thể nào có những người đồng chí hướng, cùng làm việc với mình.
Chọn cho mình vài người bạn, bằng cách tham gia một nhóm thông công, hoặc sinh hoạt trong ban thanh niên sẽ giúp chúng ta có những nhóm bạn. Từ đó dần dần sẽ có một vài bạn thân, có thể tâm sự, chia sẻ nan đề cho nhau, trở thành quan xét cho nhau, và qua bạn thân chúng ta có người cùng gắn bó, cùng làm việc với nhau.
Nếu bạn có kỷ luật trong tương giao với người trong cộng đồng Hội thánh, bạn sẽ không bao giờ phải vò võ làm việc một mình. Lẽ ra Sam-sôn không phải một mình chiến đấu, một mình xoay sở để giải quyết những nan đề trong đời sống của ông.
Suốt cuộc đời của Sam-sôn dường như không có ai tốt đứng chung với ông cả, và Sam-sôn cũng chẳng chịu đứng với ai cả. Có chăng là khi ông còn nhỏ tuổi, và khi ông qua đời thì gia đình có gần ông. Còn Sam-sôn khi trưởng thành thì bắt buộc gia đình phải chìu ý mình trong chuyện lấy vợ.
Tiên tri Ê-li lúc đầu xuất hiện chỉ có một mình, và chỉ có một mình ông chống lại cả một triều đình tội lỗi và tuyển dân tội lỗi, nhưng ông có một người cộng sự (người tôi tớ của ông) , rồi sau đó sau biến cố trên núi Cạt-mên, ông có cả dân sự đứng chung với ông. Còn Sam-sôn thì ngược lại, ông sống cô độc, một mình tự quyết định, tự giải quyết và cũng đơn độc chiến đấu.
Nhiều người làm việc trong cô đơn.
Hoặc người đó tự cô lập mình, hoặc người đó không chấp nhận được ai cả. Nên nhớ rằng người Cơ-đốc không sống tách biệt khỏi cộng đồng Hội thánh. Cơ-đốc nhân không sống vò võ một mình để mà ‘gặm một khối căm hờn trong cũi sắt’. Đừng là một người Cơ-đốc cô đơn, cũng đừng đơn thương độc mã làm việc Chúa.
Bạn có tương giao với anh chị em cùng niềm tin không?
Tương giao đó có được duy trì và ích lợi thiết thực cho bạn không?
Nhóm nhỏ của bạn có phải là môi trường tương giao tốt không?
(c) Kỷ luật trong quan hệ tình cảm
Vấn đề không đơn thuần là bạn quyết định không lập gia đình với người chưa tin Chúa, mà vấn đề là làm thế nào bạn lập gia đình với người cùng đức tin.
Vì nhiều người khi còn nhỏ tuổi, khi chưa yêu thì nói không muốn lập gia đình khi lớn lên sau này. Nhưng quyết định đó không bao giờ thực hiện được, vì sao? Vì người đó không có biện pháp thích hợp để không yêu ai và không lấy ai.
Làm thế nào để bạn có thể yêu và lập gia đình với người cùng đức tin? Nếu bạn tích cực trong phương diện này thì sẽ không vướng vào chuyện tiêu cực là ‘cùng Sam-sôn đi xuống Thim-na tìm vợ’.
Nếu ở trong cộng đồng Hội thánh mà không có bạn khác phái, thì sẽ không có bạn thân khác phái, và sẽ không có chuyện hẹn hò, không có chuyện bồ bịch yêu thương người cùng đức tin được.
Kỷ luật trong quan hệ tình cảm phải bắt đầu bằng hành động tích cực ‘phải’ chứ không bắt đầu bằng hành động tiêu cực ‘chớ’. Phải đi tìm người khác phái cùng niềm tin, phải kết bạn với người khác phái cùng đức tin, phải làm bạn thân với người khác phái cùng niềm tin, phải bồ bịch với người khác phái cùng niềm tin, và phải tỏ tình với người khác phái cùng niềm tin. Và như vậy thì bạn mới có thể thực hiện được mạng lệnh ‘chớ mang ách chung với kẻ chẳng tin’.
Kỷ luật trong tình cảm có cần ngược dòng không? Con người đôi khi rất giống khỉ. Thấy ông khỉ tán tỉnh và ôm lấy một nàng khỉ, khỉ con cũng tìm một con khác để mà tán tỉnh để mà ôm như vậy. Thật là đồ khỉ!
Thời của Sam-sôn, nhà nào cũng dựng vợ gả chồng với người Phi-li-tin, thanh niên thanh nữ lớn lên là đi tìm bạn người ngoại. Và Sam-sôn cũng xuôi dòng theo họ.
Thấy người ta có bồ (dù là bồ trong Chúa) mình cũng đi tìm bồ (bồ giả). Để lấy le, để tự khẳng định bản thân. Anh có bồ tôi cũng có bồ. Anh có một, tôi có hai…
Thấy người ta ‘xài tình dục miễn phí’, theo kiểu ‘tình cho không biếu không’ mình cũng cho cũng biếu...
Sợ, không dám sống khác người là một lý do, nhưng thích sống giống người lại là một lý do khác.
Một mặt là áp lực của số đông (yếu tố ngoại tại) , một mặt là ham muốn của bản thân (áp lực nội tại) ; sống theo kiểu ai sao tôi vậy cũng sai, nhưng sống theo điều mình muốn, mình cho là phải cũng sai. Sống theo ý Chúa muốn mới đúng.
(d) Kỷ luật trong công việc
Khi nhận trách nhiệm làm quan-xét cho tuyển dân, Sam-sôn phải thực hiện nhiều việc. Nhưng nhìn chung có hai việc chính, ‘việc công và việc tư’.
Người có kỷ luật trong công việc là người giải quyết ổn thoả giữa cái chung và cái riêng trong đời sống. Ưu tiên là việc gì. Đối với Sam-sôn dường như ưu tiên là việc riêng. Kinh Thánh ghi chép về các đợt hoạt động của ông đều bắt đầu bằng việc riêng, còn việc chung là chuyện tiếp theo.
Người có kỷ luật trong công việc không làm việc theo cảm hứng, hoặc theo những tình huống bất ngờ. Dù được Thần của Chúa cảm động, đây là phần của Chúa, nhưng phần của Sam-sôn là phải khôn ngoan trong việc thực hiện. Nhưng chúng ta thấy Sam-sôn làm việc tùy hứng, bốc đồng và thiếu thận trọng. Một người có trách nhiệm trên người khác mà làm việc tùy hứng, đối phó với công việc theo kiểu bốc đồng và giải quyết những vấn đề trong đời sống một cách khinh xuất thì khó lãnh đạo êm thắm ổn thoả, ngược lại mọi việc sẽ rối tung lên. Đó là chưa nói đến chuyện phải luôn luôn lo đối phó với hoàn cảnh.
Từ chuyện đám cưới của Sam-sôn, đến chuyện ra câu đố và giải câu đố, đến chuyện phần thưởng đã tạo ra những tình huống rắc rối buộc ông phải giải quyết. Ông phải đối phó với hoàn cảnh thay vì chủ động trên hoàn cảnh. Dù nỗ lực của Sam-sôn có gặt hái được ít nhiều thành quả nhưng đáng lẽ ông gặt hái được nhiều thành quả to tát hơn, có giá trị hơn, có ảnh hưởng thực tế hơn (giải phóng tuyển dân khỏi ách thống trị của ngoại bang) .
Vì không có kỷ luật trong công việc mà Sam-sôn không biết phải bắt đầu công tác ở đâu, như thế nào rồi kết thúc ở đâu. Chàng bắt đầu bằng chuyện riêng ở ngoài khu vực Chúa cho phép, và kết thúc bằng chuyện báo thù vì bị mất hai con mắt. Dù là quan xét, dù mạnh sức hơn người, dù được Chúa ở cùng, dù có những chiến công, nhưng công việc của ông không có kết quả cho Chúa và cho tuyển dân.
Một đời sống làm việc có kỷ luật, là biểu hiện của người siêng năng và khôn ngoan. Người ta nói những người ‘có tài thì có tật’. Tật biếng nhác, lè phè, không trật tự, tùy hứng… làm cho những thiên tài trở thành thiên tai.
Bạn có kỷ luật trong công việc không? Dù bạn cho rằng bạn không có tài (thật ra Chúa cho mỗi người một tài, ai cũng có tài năng) , nhưng mong rằng bạn không có tật trong công việc. Hãy quyết định làm một người có kỷ luật trong công việc.
3. Quyết định tìm người làm quan xét cho mình.
Sam-sôn làm quan xét cho tuyển dân, nhưng lại không có ai làm quan xét cho ông. Khi còn nhỏ còn có mẹ có cha, nhưng khi lớn lên Sam-sôn không còn xem cha mẹ là người có quyền hành trên ông nữa. Cho nên khi cha mẹ nói, Sam-sôn không chịu nghe theo.
Bạn cần có trách nhiệm trên người khác nhưng cũng hãy để cho người khác có trách nhiệm trên bạn. Đừng từ chối một người hoặc nhiều người làm quan xét cho bạn.
Chúng ta thường tránh né những người truy cứu trách nhiệm nơi chúng ta. Chúng ta không ưa những người xét nét, thẩm tra chúng ta. Chúng ta e ngại là khi ánh sáng chiếu rọi vào thì biết bao chuyện sai trật trong chúng ta sẽ lộ ra.
Một trong những cách tránh né các vị quan xét là đi thờ phượng Chúa ở những ngôi nhà thờ lớn, ngồi ở cuối phòng, đi trễ về sớm, không gia nhập vào bất cứ nhóm nhỏ nào, không tham gia lớp học Kinh Thánh hoặc nhóm học Kinh Thánh. Sinh hoạt theo kiểu ngoài lề (bên lề) , hoặc làm tín đồ quốc tế thì không có ai làm quan xét cho mình và bản thân cũng không có trách nhiệm gì cả.
Khi sống như vậy bạn sẽ tự đặt ra tiêu chuẩn sống cho mình, và hành động theo quan điểm mình ‘lấy làm phải’. Sống theo cách đó thì bạn sẽ gặp nguy khốn, khó sống sót trong đời sống theo Chúa vì khó lòng đơn độc chống chọi với vô số nan đề trong đời sống thuộc linh. Tự làm quan xét cho mình thì dễ hơn nhưng hoá ra khó. Chấp nhận một ai đó làm quan-xét cho bạn khó nhưng trở nên dễ.
Có điều kỳ lạ là trong khi bạn không muốn người khác làm quan xét cho bạn, nhưng bạn lại thích làm quan xét cho người khác. Bạn nhìn bản thân mình qua kính mờ màu hồng nhưng nhìn người bằng kính lúp. Bạn đòi lấy cái dằm trong mắt người khác mà không thấy cây xà nơi mắt mình.
Cho nên thật là tốt khi trong đời sống bạn có quan xét. Đó là người (hoặc vài người) có thể nhắc nhở chúng ta về những sai trật, những nguy hiểm có thể xảy ra trong đời sống. Chúng ta có thể tâm tình, kể lể với họ về công việc, về hoài bão của chúng ta. Họ sẽ góp ý, sẽ cầu thay, cùng làm việc với chúng ta.
Cần khiêm nhường, cần thấy rằng bạn cũng chỉ là con người yếu đuối, cần có người nhìn thấy tình trạng của bạn, kiểm soát bạn và dạy cho bạn cách đối phó với những vấn đề có thể gây rắc rối đến đời sống bạn.
Có ai đang làm quan xét cho đời sống bạn không? Những người đó có thể là ai? Có thể là bạn bè trong nhóm nhỏ, anh chị hướng dẫn, người thân trong gia đình… Khi gặp rắc rối bạn có thể tâm sự với họ. Khi họ thấy đời sống của bạn có những trục trặc họ có thể giúp bạn.
• I Sử-ký ISu1Sb 19:12-13
Giô-áp và A-bi-sai là hai anh em, họ cùng làm tướng của vua Đa-vít. Cả hai cùng được phái đi đánh quân Sy-ri và dân Am-môn. Trước khi xung trận, Giô-áp đã nói với em mình: “Nếu quân Sy-ri mạnh hơn anh, em sẽ giúp đỡ anh; còn nếu quân Am-môn mạnh hơn em, anh sẽ giúp đỡ em. Khá vững lòng bền chí; hãy vì dân ta vì các thành của Đức Chúa Trời ta, mà làm như cách đại trượng phu; nguyện Đức Giê-hô-va làm theo ý Ngài lấy làm tốt.”
Bài 9: PHỤC VỤ CHÚA
(LuLc 10:1-11)
Chúng ta thường thấy trên nhiều loại thùng giấy đựng hàng hoá có in một vài dấu hiệu. Nhìn vào dấu hiệu chúng ta biết nên làm gì với các thùng hàng. Vin vào ý nghĩa của mấy dấu hiệu này, chúng ta nghĩ đến những đặc điểm của các Cơ-đốc Nhân ngày nay.
Cơ-đốc nhân là người đã được Chúa Cứu, đã trở thành con của Chúa.
Bây giờ họ dâng mình để phục vụ Chúa Cứu Thế. Tuy nhiên, trong khi phục vụ Chúa, trong khi cùng phục vụ Chúa trong một cộng đoàn, họ lại có những yêu cầu khác nhau. Qua việc tìm hiểu ý nghĩa của những dấu hiệu này, chúng ta xem xét lại bản thân của mình để Chúa có thể hài lòng khi chúng ta dâng hiến đời sống để phục vụ Chúa.
1. Dấu hiệu ĐỂ TRONG MÁT.
Dấu hiệu này là lời yêu cầu đặt thùng hàng ở chỗ mát mẻ, không nên bỏ ở chỗ nắng nóng. Cất giữ ở chỗ mát mẻ thì còn sử dụng được ít lâu. Nhưng nếu bỏ ở chỗ nắng nóng thì hàng hoá sẽ hư thối ngay.
Dấu hiệu này thông tin là hàng hóa không chịu nổi nhiệt độ cao. Mức chịu đựng đối với thời tiết có giới hạn.
Phải chăng đời sống tôi là một tặng vật dâng lên cho Chúa, nhưng xin nhớ để tôi tại nơi mát mẻ.
Đây là hình ảnh những người Cơ-đốc không chịu nổi những đợt thách thức, những biện pháp huấn luyện. Họ thích nhàn nhã hơn là tập luyện. Huấn luyện là phải gian khổ, phải chịu nắng nóng, phải tập luyện tốn hao công sức. Cụ thể là ở nhiều lớp huấn luyện chẳng có học viên nào chịu làm bài tập, chẳng có ai chịu thực tập cả. Họ thích nhàn hạ và không chịu dấn thân.
Người xưa nói “không vào hang hùm sao bắt được cọp”. Còn những người này nói “ngoài đường có con sư tử” (ChCn 26:13) cho nên họ cứ ở trong mát. Lên thuyền để đi đánh cá thì họ nói rằng ngoài khơi có con thuỷ quái, cho nên thay vì đánh cá cực khổ, họ lại đi du lịch ven bờ để ngắm cảnh; lên rừng thì họ hô hoán là có dã nhân khổng lồ, cho nên họ cứ ở nhà nghỉ ngơi và hưởng nhàn.
Loại người này khi dâng mình phục vụ Chúa thì chỉ muốn nhận công tác ở những nơi dễ chịu, dễ sống. Họ không muốn sống cực khổ tại những nơi khó khăn, thiếu tiện nghi.
Là công nhân của Đức Chúa Trời, nhưng họ chỉ muốn làm công nhân trong nơi mát mẻ, nên gặp mưa hoặc nắng, lúc trở trời là bịnh ngay.
Là nông dân trong cánh đồng của Đức Chúa Trời, nhưng họ không chịu đi ra đồng ruộng làm việc. Cho nên dù đồng lúa đã chín vàng, con gặt vẫn rất ít oi. Vì nhiều người ngại cực nhọc, ngại dãi dầu nắng mưa.
Là lính trong đạo quân của Đức Chúa Trời, nhưng họ thích làm lính kiểng. Họ chỉ muốn trang bị khí giới cho oai thôi chớ không muốn ra trận. Vì ra trận phải chiến đấu, phải tiến tới, phải chịu khổ, phải hy sinh. Cho nên chẳng ai dám rời trại quân để đối địch với Gô-li-át cả, chẳng ai dám xung phong tiến công ma quỉ cả.
Phục vụ trong nhà thờ họ cảm thấy dễ chịu, khoẻ khoắn hơn. Còn nếu buộc phải phục vụ Chúa ở trong xã hội, trong hàng xóm, nơi làm việc thì thấy khó khăn, khó sống.
Chúa Giê-xu không bao giờ hứa hẹn với những người muốn phục vụ Ngài về một cuộc sống an nhàn, thong dong suông sẻ.
Khi Ngài sai các môn-đệ ra đi, Ngài bảo ban họ 2 điều:
- Thứ nhất “Mùa gặt thì trúng, song con gặt thì ít” (LuLc 10:2) , nghĩa là khi làm môn-đệ của Chúa phải ra đi, phải làm việc nặng nhọc lắm, vì công việc rất nhiều. Đồng lúa chín vàng, mà người ra đồng gặt thì ít. Cho nên không có chuyện ở trong mát, không có chuyện nghỉ ngơi nhiều làm việc ít.
- Thứ nhì “Ta sai các ngươi đi như chiên con ở giữa bầy muông sói” (LuLc 10:3) , nghĩa là môn-đệ của Chúa ra đi là phải đối diện với khó khăn với nguy hiểm. Như vậy, người phục vụ Chúa phải chấp nhận khó khăn nguy hiểm.
Chúng ta ngày nay chọn con đường nhàn nhã và an toàn trong khi phục vụ Chúa. Thật đáng buồn. Ông Phao-lô trong thời gian ở trong tù đã khuyên Ti-mô-thê: “Hãy cậy quyền phép Đức Chúa Trời mà chịu khổ với Tin Lành” (IITi 2Tm 1:8c) . Trong đoạn 2 câu 3 ông lại nói: “Hãy cùng ta chịu khổ như một người lính giỏi của Đức Chúa Giê-xu Cứu Thế.”
Chúng ta có phải là những môn đệ của Chúa Giê-xu không? Có sẵn sàng để Chúa sai chúng ta đến bất cứ nơi nào Chúa muốn không? Có sẵn sàng làm bất cứ việc gì Chúa muốn chúng ta làm không?
2. Dấu hiệu ĐỂ THEO CHIỀU NÀY
Dấu hiệu này có nghĩa là phải đặt thùng hàng theo đúng chiều ấn định. Đặt theo chiều khác thì sẽ bị lộn tùng phèo, sẽ bị vỡ bể.
Loại người mang dấu hiệu này không phải không muốn phục vụ Chúa. Họ sẵn sàng phục vụ Chúa nhưng phải theo ý của họ, theo cách của họ. Nếu có ai sắp xếp trái ngược với ý của họ thì nội tâm của họ cứ như sành sứ vỡ bể, tâm tính của họ hoàn toàn bị xáo trộn, không còn như xưa nay nữa. Và hậu quả là cuộc đời phục vụ kể như tan vỡ luôn.
Loại người này dâng mình cho Chúa, phục vụ Chúa, nhưng ý riêng còn lớn lắm. Đây là loại người hay phản kháng lại ý muốn của Đức Chúa Trời. Vì thường phản kháng cho nên không chịu tình nguyện làm theo ý muốn Chúa. Họ chỉ tình nguyện và vui vẻ phục vụ đối với những công tác hợp ý họ mà thôi.
Chúng ta hãy tưởng tượng một người phục vụ Chúa mà cứ muốn hầu việc theo ý riêng thì sẽ thế nào? Ông Giô-na là một trường hợp cụ thể. Ông phục vụ Chúa, nhưng không muốn theo ý Chúa. Ông phản kháng ý Chúa và ra đi đến chỗ Chúa không muốn ông đi.
Gion Gn 1:1-2. “Có lời Đức Giê-hô-va phán cho Giô-na con trai A-mi-tai như vầy: Ngươi khá chổi dậy! Hãy đi đến thành lớn Ni-ni-ve, và kêu la nghịch cùng chúng nó; vì tội ác chúng nó đã lên thấu trước mặt ta.
Nhưng Giô-na chổi dậy đặng trốn qua Tê-ra-si, để lánh khỏi mặt Đức Giê-hô-va. . .”
Ông Giô-na nghe được tiếng phán của Đức Chúa Trời, có mối quan hệ thân thiết với Chúa, Chúa bày tỏ ý định và chương trình của Ngài cho ông; Chúa cũng tin cậy ông và giao trách nhiệm cho ông. Nhưng tiếc thay, ông Giô-na không muốn đi theo chiều hướng của Chúa, ông đi ngược lại ý Chúa. Chúa bảo ông đi Ni-ni-ve, ông lại đi Ta-rê-si là hướng ngược lại. Chúa bảo ông đi giảng cho người ta ăn năn, ông lại đi xuống tàu chở hàng và ngủ. Đáng lẽ ông rao sự huỷ diệt cho người khác để họ ăn năn, nhưng ông suýt bị huỷ diệt, rồi ông trở thành người cần ăn năn với Chúa.
Một người hầu việc như ông Giô-na sẽ gây ra biết bao điều rắc rối cho người chung quanh và cho chính cuộc đời của người đó.
Khi cùng với nhau phục vụ Chúa, chúng ta cũng thấy xảy ra lắm điều rắc rối. Ai cũng cho ý mình là đúng, không ai chịu nghe ai cả. Phải chăng vì cớ “chín người mười ý”, Hoặc vì cớ ai cũng cho ý mình là đúng và đòi phải theo ý mình?
Chúng ta vừa không chấp nhận nhau vừa không chịu theo ý của Chúa. Đôi khi Chúa dùng người khác cho chúng ta biết ý của Ngài, chúng ta không chịu tôn trọng lời nói của họ; đôi khi Chúa dùng lời Ngài, dùng những nguyên tắc trong Kinh Thánh để cho chúng ta biết ý của Ngài, chúng ta cũng không tán thành.
Cho nên con người muốn hầu việc Chúa mà chỉ theo ý mình chẳng những gặp những chuyện rắc rối mà còn dễ sinh ra bất mãn, bực bội, buồn phiền; vừa trách Chúa, lại vừa oán người khác; không hài lòng về ý Chúa, không hài lòng về ý của người khác, chỉ coi ý mình là quan trọng, bắt Chúa và người khác phải theo ý mình. Đổ vỡ, tan rã là điều chắc chắn.
Một tín hữu nọ muốn dâng hiến cho hội thánh một số tiền để mua một cây đàn cho hội thánh, nhưng buộc hội thánh đó phải theo ý mình, nghĩa là phải mua cây đàn hiệu A mà người ấy thích. Sau một thời gian không thấy cây đàn đâu cả, cũng không thấy tiền dâng đâu cả mà chỉ thấy hội thánh chia làm hai phe. Một phe đòi thực hiện theo ý của người dâng, một phe không tán thành.
Ông Sam-sôn là hình ảnh của người hầu việc Chúa nhưng muốn theo ý riêng. Kết quả là gì? Dù ông có đức tin, có sức mạnh Chúa cho, có Thần của Đức Chúa Trời cảm động, nhưng vì ý riêng, vì đòi sống và phục vụ theo ý ông muốn, cho nên Chúa phải từ bỏ ông.
Ai trong chúng ta cũng nói mình phục vụ Chúa, nhưng chúng ta đang theo ai? Theo con người, theo ý mình, ý người hoặc theo ý Chúa đây?
3. Dấu hiệu ĐỪNG ĐỂ VẬT GÌ ĐÈ LÊN
Dấu hiệu này báo cho chúng ta biết thùng hàng này mỏng manh, dễ vỡ, dễ hư, đừng đặt đồ nặng chồng lên thùng. Có loại dấu hiệu chỉ cho phép đặt chồng lên món đồ nặng đến 24 ký thôi.
Đây là hình ảnh một người phục vụ Chúa nhưng không chấp nhận quyền hành của người khác. Nếu có ai ở trên mình, có ai hơn mình, chỉ huy mình thì đương sự nghĩ rằng người ta “đè đầu cưỡi cổ mình”. Con người này chỉ muốn một mình một cõi, hoặc đương sự lo “đè đầu cưỡi cổ mình” người ta trước để người ta không thể đè đầu cưỡi cổ mình đương sự nữa.
Con người này nếu làm việc thì chỉ làm việc một mình thôi, chẳng chịu phục tùng dưới quyền ai cả, coi mình là số một thậm chí coi mình như vua một cõi.
Đây là con người khó vâng lời, khó đầu phục Chúa và khó phục tùng hội thánh. Ở trong hội thánh con người này không thể làm đầy tớ cho người khác, không bao giờ làm tấm thảm cho anh em mình chùi chân, không chấp nhận làm con lừa cho Chúa Giê-xu cưỡi lên. Đây là người nói: Tôi mà phải dọn bàn cho người khác sao? Tôi mà phải rửa chân cho ông đó sao? Ông đó mà đòi chỉ huy tôi sao?
Trong 3 Giăng câu 9 có đề cập đến Đi-ô-trép là kẻ ưng đứng đầu Hội Thánh. Ông này đã làm mưa làm gió trong hội thánh, không coi ai ra gì hết, không thuận phục ai cả, thậm chí không thèm tiếp rước phái đoàn của ông Giăng. Ngược lại cũng trong hội thánh đó có ông Đê-mê-triu (câu 12) : “Mọi người đều làm chứng tốt cho Đê-mê-triu, và chính lẽ thật cũng chứng cho; chúng tôi cũng làm chứng riêng cho người.” Là một người tốt trong hội thánh.
Lời Chúa khuyên tất cả chúng ta: Hãy hạ mình xuống dưới tay quyền phép của Đức Chúa Trời.
Trong khi phục vụ Chúa, chúng ta có bằng lòng làm người đầy tớ phục vụ anh em mình không? Chúng ta có chịu làm tấm thản cho anh em mình chùi chân không? Có sẵn sàng để người khác chỉ huy chúng ta không?
Hình ảnh đừng chồng vật nặng lên thùng làm chúng ta liên tưởng đến những Cơ-đốc nhân không chịu nổi những áp lực từ bên ngoài, những áp lực gia đình khiến cho người đó không còn khả năng phục vụ Chúa nữa; áp lực bạn bè cũng nặng nề lắm, cũng có thể làm cho người đó câm nín, không thể bày tỏ về Chúa; áp lực nghề nghiệp cũng mạnh lắm, cũng có thể làm cho người đó không dám phục vụ Chúa ...
Nếu bạn muốn theo Chúa Giê-xu, Chúa nói bạn phải vác thập tự giá mình theo Chúa mỗi ngày. Nhưng bạn trả lời rằng bạn chỉ theo Chúa mà thôi, không muốn có cây thập tự nào đè lên vai của mình, nghĩa là bạn không muốn nhận trách nhiệm của một môn-đệ, không muốn hi sinh chịu khổ vì người khác, không muốn hạ mình xuống để mang gánh nặng cho anh chị em của mình.
Ông Phao-lô khuyên trong GaGl 6:2: “Hãy mang lấy gánh nặng cho nhau.” Chúng ta chỉ có thể mang lấy gánh nặng cho nhau khi chúng ta quan tâm đến anh em mình, và chúng ta hạ mình xuống, khiêm nhường để cưu mang, lo toan đến những vấn đề của anh em chúng ta.
4. Dấu hiệu ĐẾN GIÁNG SINH HÃY MỞ MÓN QUÀ
Đây là lời nhắn gởi kèm theo món quà: “Xin vui lòng mở trong ngày lễ Giáng Sinh”. Hoặc “Chỉ mở quà vào ngày lễ Giáng Sinh”.
Đây cũng có thể là lời nhắn của một số người gởi đến Chúa Giê-xu: “Chúa ơi, con muốn phục vụ Chúa, nhưng xin hẹn Chúa ngày mai, đến ngày ngày lễ Giáng Sinh con sẽ phục vụ. Con sẵn sàng phục vụ Chúa, nhưng lúc này con đang bận, con chỉ có thể phục vụ Chúa trong những dịp lễ thôi”.
Đến ngày lễ Giáng Sinh mới đi nhà thờ, mới thi Kinh Thánh, mới dâng tiền, mới gia nhập ban hát lễ ... là một dạng lâu lâu phục vụ một lần, nhằm phô trương trong dịp lễ, nhằm mua vui với mọi người.
Nhưng Chúa Giê-xu nói rằng làm môn-đệ của Ngài là hằng ngày vác thập tự mình mà theo Chúa, tức là mỗi một ngày đều phục vụ, mỗi một ngày đều phải tiến bước với Ngài, mỗi ngày cứ làm môn-đệ của Ngài.
Chúa muốn chúng ta phục vụ Ngài trong tinh thần bền bỉ, kiên nhẫn, lâu dài, trọn cuộc đời.
Còn con người chúng ta lại cho rằng ngày nào cũng phải theo Chúa thì nhàm chán lắm, mệt mỏi lắm, không thích thú gì cả. Chúng ta giống như những con chim di trú. Đến mùa thì bay đến, ăn uống, trú thân, sau đó lại bay đi. Cơ-đốc nhân thờ phượng theo mùa, phục vụ theo mùa thì sống theo cảm xúc thất thường, thiếu lòng quyết tâm và bền bỉ, rất dễ bị ngoại cảnh chi phối.
Chúng ta có phục vụ Chúa theo lễ, theo mùa không?
5. Dấu hiệu DỄ BỂ - XIN NHẸ TAY
Hai dấu hiệu này nhắc nhở chúng ta phải coi chừng. Bởi vì nếu không nhẹ tay thì món hàng sẽ bể.
Chúng ta phải cẩn thận đối với những món hàng có dấu hiệu dễ bể như thế nào, thì đối với những người phục vụ Chúa có trương dấu hiệu dễ bể - xin nhẹ tay - chúng ta cần cẩn thận hơn nhiều.
Đối với những người này chúng ta phải nưng như nưng trứng, hứng như hứng hoa; không được nói nặng với đương sự, phải hết sức chiều chuộng nịnh bợ, người đó có làm sai cũng đừng nói gì, tốt nhất là cứ khen người đó, còn nếu không thì đừng nói gì hết, lỡ phát biểu ý kiến là bể ngay. Nghĩa là gì? nghĩa là dễ giận dỗi, dễ phiền, hay làm eo làm sách.
Một người hầu việc mà “bể ngay” khi gặp chuyện trái ý thì hậu quả sẽ ra sao? Ông Giô-na là một trường hợp điển hình. Gion Gn 4:1 “Bấy giờ Giô-na rất không đẹp lòng và giận dữ. Đức Giê-hô-va trả lời cùng Giô-na rằng: Ngươi giận có nên không?”
Ông Phao-lô viết trong ICôr1Cr 3:3. “Trong anh em có sự ganh ghét và tranh cạnh, anh em há chẳng phải là tánh xác thịt ăn ở như người thế gian sao?” Tánh xác thịt là một trong những nguyên nhân làm cho đời sống chúng ta bị bể - bị hư, bị đau đớn. ChCn 25:28: “Người nào chẳng chế trị lòng mình, khác nào một cái thành hư nát, không có vách ngăn”.
Một vị lãnh đạo tại một hội thánh nọ, thường hay đập bàn, hay la hét người khác trong buổi họp. Ông ta không muốn ai trái ý của mình, lại rất mau nổi nóng. Một ngày kia, trong một cuộc họp, ông ta lại đập bàn và la hét, một người nọ đã nhỏ nhẹ nói: “Thưa ông, chúng tôi đang phục vụ trong hội thánh của Đức Chúa Trời chứ không phải trong một công ty của con người; chúng tôi trước hết muốn làm vừa lòng Đức Chúa Trời chớ không phải làm vừa lòng ông. Nếu chúng tôi sai, hãy chỉ dạy cho chúng tôi. Nhưng nên nhớ rằng chúng tôi không lãnh lương của hội thánh mà chỉ trông đợi kết quả tốt đẹp và xem đó là phần thưởng của Đức Chúa Trời dành cho chúng tôi”.
Trong tiếng Việt có thành ngữ “hư bột hư đường”. Chúng ta đừng vì tánh xác thịt mà làm hư thân thể của Đấng Cứu Thế.
Chúng ta cũng nên nhớ rằng Chúa Giê-xu bể ra như một miếng bánh bị bẻ ra. Đây là sự hy sinh, chịu khốn khổ để nhiều người được bình an, được tha tội. Còn chúng ta bể ra không đem đến sự bình an, mà gây nên sự chia rẽ, chống nghịch, thù oán, ganh ghét. Đừng làm một con người dễ bể vì tánh xác thịt, hãy làm một con người dễ bể vì tình yêu thương.
6. Món quà không có dấu hiệu nào cả. SAO CŨNG ĐƯỢC.
Đây là món quà không phải lo giữ gìn trong chỗ mát mẻ.
Cũng không buộc phải đặt theo chiều này hoặc chiều kia.
Có thể đem ra sử dụng ngay mà không yêu cầu chờ dịp lễ.
Cũng có thể bị đồ đạc chồng chất đè lên và cũng không sợ bị bể. Nghĩa là xài sể sao cũng được, mạnh tay một chút cũng không sứt mẻ hư hại gì.
Món quà này tượng trưng cho loại người chịu được mọi hoàn cảnh.
Đây là mẫu người phục vụ mà Chúa Giê-xu hài lòng.
Khi Chúa gọi thì người này trả lời ngay: “Có con đây.”
Khi Chúa cần người để sai phái thì người đó trả lời: “Xin hãy sai con”
Trong khi phục vụ nếu họ lâm vào tình thế như ông Giô-sép, bị ghét bỏ, bị đày ải, bị vu oan... Họ nhờ cậy Chúa mà vượt qua và làm Chúa hài lòng.
Trong khi hầu việc Chúa, họ bị ganh ghét như Sau-lơ ghét Đa-vít chăng? Họ bị săn đuổi như Sau-lơ săn đuổi Đa-vít chăng? Nhờ cậy Chúa, họ chịu được.
Trong cuộc sống họ bị ép đủ mọi cách như ông Đa-ni-ên đã bị chăng? Nhờ cậy Chúa, họ vượt qua được.
Họ bị quăng vào lò lửa chăng? Chúa đi vào đó với họ và bảo vệ họ.
Họ không chọn lựa hoàn cảnh cho mình, không chọn nơi sống tốt đẹp cho mình. Họ chỉ biết một điều, phó thác mình cho Chúa, trông cậy nơi Ngài, hết lòng nhờ cậy Chúa trong hoàn cảnh Chúa đang đặt để họ, và tin rằng Đức Chúa Trời là thành tín.
Ông Phao-lô viết trong IICôr 2Cr 4:8-10. “Chúng tôi bị ép đủ cách, nhưng không đến cùng; bị túng thế, nhưng không ngã lòng; bị bắt bớ, nhưng không đến bỏ; bị đánh đập, nhưng không đến chết mất. Chúng tôi thường mang sự chết của Đức Chúa Giê-xu trong thân thể mình, hầu cho sự sống của Đức Chúa Giê-xu cũng tỏ ra trong thân thể chúng tôi.”
ICôr1Cr 15:58. “Vậy, hỡi anh em yêu dấu của tôi, hãy vững vàng chớ rúng động, hãy làm công việc Chúa cách dư dật luôn, vì biết rằng công khó của anh em trong Chúa chẳng phải là vô ích đâu.”
Chúa có hài lòng với thái độ và cung cách phục vụ của chúng ta không? Chúa có thể nhận định về chúng ta như sau đây không: “Ngươi là con yêu dấu của Ta, đẹp lòng Ta mọi đường”?
bottom of page