top of page

MA-THI-Ơ (3)

KINH THÁNH

TÂN-ƯỚC

THỂ LOẠI

Các Sách Phúc-Âm



15. NHỮNG LỜI GIÁO HUẤN CỦA NHÀ VUA (Mat 19:1-15)


Ma-thi-ơ 19:1-2...

...Việc Nhà Vua “rút lui” khỏi đám đông sắp đến hồi kết thúc. Nhưng sự công kích của kẻ thù ngày càng mạnh mẽ, cuối cùng đã bắt và đóng đinh Ngài. Các nhà lãnh đạo giáo hội luôn đặt ra những câu hỏi về ngày Sa-bát và dấu lạ để tìm cách gài bẫy Chúa, nhưng không thể làm hại Ngài được. Họ lại tiếp tục thử Ngài, lần này họ đưa ra vấn đề gây nhiều tranh cãi nhất - ly dị.


Ly dị là vấn đề nghiêm trọng và gây xôn xao dư luận ngày hôm nay. Tỉ lệ các vụ ly dị cứ leo thang (vào thời điểm viết sách này, cứ 1,8 cặp cưới nhau có 1 cặp bỏ nhau), và tình trạng ly dị đã len lỏi vào trong gia đình các bậc lãnh đạo Hội thánh. Người ta nhận xét rằng các cặp vợ chồng “cưới nhau để sống tốt hơn hoặc tệ hơn, nhưng không lâu dài.” Chúng ta cần xem xét lại những lời Chúa Giê-xu phán dạy về đề tài này. Ngài giải thích bốn điều luật khác nhau liên quan đến hôn nhân và ly dị.


1. Luật tạo dựng ban đầu (Mat 19:3-6)

Thay vì trích dẫn sách Phục-truyền Luật-lệ ký, Chúa Giê-xu trở về với sách Sáng-thế ký. Công việc Đức Chúa Trời đã thực hiện khi Ngài tạo dựng hôn nhân đầu tiên dạy chúng ta cách cụ thể điều Ngài định liệu đối với một người nam và một người nữ. Nếu xây dựng gia đình theo kiểu mẫu của Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ không băn khoăn lo lắng về luật ly dị.


 Lý do lập gia đình.

Một điều duy nhất không “tốt” trong công trình sáng tạo đó là con người sống một mình (Sa 2:18). Người nữ được tạo dựng để đáp ứng nhu cầu này. A-đam không tìm được sự tương giao với loài vật. Ông cần một bạn đồng hành ngang bằng với mình để có thể tìm được hạnh phúc nơi người đó. Đức Chúa Trời dựng nên Ê-va để đáp ứng nhu cầu này.


Hôn nhân làm duy trì nòi giống. “Hãy sinh sản thêm nhiều và làm cho đầy dẫy..” là mạng lịnh Đức Chúa Trời giao cho đôi vợ chồng đầu tiên Sa 1:28). Từ buổi ban đầu Đức Chúa Trời phán rằng tình dục phải được thực hiện trong hôn nhân. Ngoài hôn nhân, tình dục trở thành sức mạnh tàn phá nhưng trong hôn nhân đặt nền tảng trên tình yêu, tình dục có thể đem lại sự sáng tạo và ích lợi.


Hôn nhân là phương cách tránh tội gian dâm (ICôr 7:1-6). Dĩ nhiên, một người nam không nên lập gia đình chỉ để hợp pháp hóa sự thèm muốn! Nếu anh ta có thèm muốn ngoài hôn nhân, chắc chắn sẽ phạm tội sau khi lập gia đình. Anh ta không nên nghĩ rằng lập gia đình sẽ giải quyết mọi nan đề riêng tư về tình dục. Nhưng hôn nhân là công việc Đức Chúa Trời chỉ định cho một người nam và một người nữ cùng chia sẻ vui buồn trong đời sống lứa đôi.


Phao-lô dùng hôn nhân làm hình ảnh minh hoạ cho mối tương giao mật thiết giữa Đấng Christ và Hội thánh (Eph 5:22-23). Như Ê-va được dựng nên bởi xương sườn A-đam Sa 2:21), thì Hội thánh cũng được khai sinh bởi sự đau đớn và khổ hình của Đấng Christ trên thập tự giá.

Đấng Christ yêu Hội thánh Ngài, nuôi dưỡng Hội thánh bằng lời Hằng sống của Ngài, thánh hóa và chăm sóc Hội thánh. Mối thâm giao giữa Đấng Christ và Hội thánh là gương soi cho tất cả người chồng noi theo.


Những đặc tính của hôn nhân.

Trở lại Luật pháp nguyên thủy trong vườn Ê-đen, Chúa Giê-xu nhắc kẻ nghe đạo Ngài nhớ đến các đặc tính cơ bản của hôn nhân. Nếu ghi nhớ những đặc tính này, chúng ta sẽ biết cách xây dựng một gia đình hạnh phúc và bền lâu.


-Đó là sự kết hợp thiêng liêng.

Đức Chuá Trời thiết lập hôn nhân, và do đó chỉ có Đức Chúa Trời mới có thể điều hướng tính chất và qui luật của hôn nhân. Không toà án nào có thể thay đổi những gì Đức Chúa Trời đã tạo dựng.


-Đó là sự kết hợp về thể xác.

Người nam và người nữ trở nên “một thịt”. Trong khi chồng và vợ phải hiệp lòng hiệp ý với nhau là điều quan trọng, thì mối liên kết cơ bản trong hôn nhân là phần xác thịt. Nếu người nam và người nữ trở nên “một linh hồn”, thì sự chết sẽ không phân rẽ hôn nhân vì linh hồn không bao giờ chết. Dù cho người nam và người nữ bất hòa nhau, “không thể tương hợp”, và không sống chung được, họ vẫn là vợ chồng vì sự kết hiệp thành một thể chất.


-Đó là sự kết hợp vĩnh viễn.

Theo kế hoạch Đức Chúa Trời sắp xếp người nam và nữ gắn bó cuộc đời với nhau. Luật pháp ban đầu Đức Chúa Trời không cho biết gì về “những cuộc hôn nhân thử nghiệm”. Luật pháp Đức Chúa Trời đòi hỏi người chồng người vợ bước vào đời sống hôn nhân trong sự hiểu biết và tin cậy nhau.


-Đó là một thể hiệp nhất giữa người nam và người nữ.

Đức Chúa Trời không tạo dựng hai người nam và một người nữ, hai nữ một nam, hai nam hoặc hai nữ. Cho dù các nhà tâm lý học và luật học nào đó có nói gì thì “Hôn nhân tập thể”, “hôn nhân đồng giới tính”, và những thay đổi khác thường trong hôn nhân là trái với ý muốn của Đức Chúa Trời.


Điều răn thứ bảy (Mat 5:27-30)

Trong cuộc trao đổi này Chúa Giê-xu không nhắc đến điều răn thứ bảy, Ngài trích dẫn trong Bài Giảng Trên Núi (Mat 5:27-32). Chúng ta hãy nghiên cứu những lời Ngài phán.


Chúa Giê-xu và các tác giả Tân-ước xác nhận mệnh lệnh “Ngươi chớ phạm tội tà dâm” (Xu 20:14). Trong khi dường như chữ Thông Dâm nói đến nhiều hình thức dâm dục (Mac 7:21; Rô 1:29; ICôr 6:13), thì chữ ngoại tình chỉ liên quan đến những người đã lập gia đình. Một người đã có gia đình quan hệ tình dụcvới người không phải vợ hoặc chồng của mình, đó là tội ngoại tình. Đức Chúa Trời phán rằng ấy là việc làm sai và tội lỗi. Có vô số lời nhắc nhở trong Tân-ước chống lại tội tà dâm, bao gồm cả tội ngoại tình (Công 15:20; ICôr 6:15-18; Ga 5:19; Eph 4:17; Eph 5:3-12; Co 3:5; ITês 4:3-7; Hêb 13:4).


Điều răn này xác nhận sự thánh khiết của tình dục. Đức Chúa Trời đã tạo dựng nên tình dục, Đức Chúa Trời bảo vệ nó, và Ngài hình phạt khi chúng ta vi phạm luật lệ của Ngài. Chín điều răn được nhắc lại trong Tân-ước cho chúng ta vâng theo. (Điều răn giữ ngày Sa-bát chỉ dành cho dân Y-sơ-ra-ên và không dùng cho Hội thánh ngày nay). Chúng ta không nên nghĩ rằng được sống “dưới thời ân điển”, chúng ta có thể xem thường luật pháp Đức Chúa Trời và tránh khỏi bị hình phạt. “Đức Chúa Trời sẽ đoán phạt kẻ dâm dục và kẻ phạm tội ngoại tình” (He 13:4).


Tuy nhiên, Chúa Giê-xu giảng giải cặn kẻ hơn về vấn đề ngoại tình. Ngài phán rằng ngoại tình có thể là tội phạm kín giấu trong lòng cũng như ngoài thể xác. Chỉ đơn giản kiểm soát hành vi của thân thể thì không đủ chúng ta cũng phải làm chủ những ý nghĩ và ham muốn thầm kín nữa. Nhìn một phụ nữ mà động lòng tham muốn thì trong lòng đã phạm tội ngoại tình. Điều này không có nghĩa chúng ta không thể ngưỡng mộ một dáng dấp yêu kiều, hoặc một bức tranh đẹp vì có thể làm điều đó mà không phạm tội. Chính khi ánh mắt nhìn với ý định thoả mãn ham muốn tình dục, chúng ta phạm tội ngoại tình trong lòng.


Một cuộc sống tình dục thánh khiết bắt nguồn từ những ham thích bên trong. Chúa Giê-xu chọn lựa ra mắt và tay, bởi vì thị giác và xúc giác thường thường là những bước đầu tiên hướng đến tội phạm tình dục. Dĩ nhiên, Ngài không ra lệnh chúng ta giải phẫu thân thể, bởi vì Ngài đang đề cập đến những ham muốn bên trong. Ngài dạy chúng ta phải giải quyết dứt khoát với tội lỗi, cất khỏi cuộc sống chúng ta bất cứ điều gì chiều chuộng những ham muốn sai trái của chúng ta.Chúng ta phải “đói khát sự công bình”.


Chúa Giê-xu không thay đổi Luật hôn nhân ban đầu tại vườn Ê-đen, Ngài cũng không huỷ bỏ điều răn thứ bảy. Những lời dạy của Ngài đặt nền tảng vững chắc trên công cuộc sáng tạo của Đức Chúa Trời và luật không thay đổi của Đức Chúa Trời.


2. Luật ly dị của Môi-se (Mat 19:7-8)

Giống như nhiều người “tranh luận về tôn giáo”, những người Pha-ri-si này không thích tìm tòi chân lý. Họ chỉ quan tâm làm sao biện hộ cho chính mình và những gì họ tin. Đây là lý do người Pha-ri-si hỏi về sự để vợ trong Luật pháp Do-thái chép trong Phuc 24:1-4.


Tôi gợi ý bạn nên đọc phân đoạn Kinh Thánh quan trọng này trong bản New American Standard Bible để phân biệt các thì của động từ. Bản dịch này nói rất rõ rằng Môi-se chỉ ban cho một mệnh lệnh: Vợ đã bị để bỏ không thể trở lại với người chồng cũ nếu người ấy bị người chồng thứ hai đuổi đi. Môi-se không truyền mệnh lệnh ly dị ông cho phép ly dị. Ông truyền rằng người chồng phải cho người vợ trước của mình chứng thư ly dị. Nhưng người vợ không thể trở lại với người chồng trước của mình sau khi có người chồng thứ hai và rồi lại ly dị.


Đây thật là một luật khôn ngoan. Đầu tiên, người chồng sẽ cân nhắc trước khi vội vã bỏ vợ, bởi vì anh ta không thể cưới cô ấy trở lại. Hơn nữa, chắc chắn sẽ mất thời gian để tìm một thầy thông giáo (không phải ai ai cũng có thể viết được các chứng từ pháp luật), và trong suốt thời gian chờ đợi ấy hai người ly thân có thể làm hoà với nhau. Người Pha-ri-si đang diễn giải Luật pháp Môi-se y như thể đó là một điều răn. Chúa Giê-xu quả quyết rằng Môi-se chỉ cho phép ly dị.


Nhưng Môi-se có ý gì đối với sự không tinh sạch nào đó nơi người nữ ? Theo tiếng Hê-bơ-rơ có nghĩa là “sự trần truồng”, nhưng điều này không có ý nói đến tội phạm tình dục. Cụm từ ấy có nghĩa “điều xấu hổ nào đó” (Sa 2:25; Sa 3:7,10). Chính cách diễn giải cụm từ này đã phân chia thành hai trường phái Rabi Hillel và Rabi Shammai, đây là những học giả Do-thái nổi tiếng trong thế kỷ thứ nhất.

Quan niệm của Hillel rất dễ dãi họ nói rằng người chồng có thể ly dị vợ vì bất cứ lý do nào, trong khi Shammai có cái nhìn nghiêm khắc hơn họ cho rằng Môi- se đang nói về tội phạm tình dục. Chúa Giê-xu không ủng hộ trường phái nào cả, chắc chắn Ngài làm buồn lòng một đôi người.


Có vài luật hôn nhân đặt ra cho người Do-thái, chúng ta nên nghiên cứu để hiểu được bối cảnh. Ví dụ, nếu một người nam cưới vợ và khám phá ra rằng cô ấy không còn đồng trinh, anh ta có thể tố cáo nàng và nàng phải bị ném đá chết (Phuc 22:13-21). Dĩ nhiên, anh ta phải có bằng chứng và nếu không có bằng chứng, anh ta sẽ bị phạt và phải sống suốt đời với người nữ ấy. Luật này bảo vệ người nữ như người nam.


Nếu người nam nghi ngờ vợ mình không chung thuỷ, anh ta sẽ áp dụng cách thức đã vạch ra trong Dan 5:11-31. Ngày nay chúng ta không thể áp dụng theo trình tự ấy được (chắc chắn có bao gồm sự đoán phạt của Thiên Chúa) bởi vì không còn có thầy tế lễ và bàn thờ.


Hãy nhớ rằng Luật pháp Môi-se phạt tội chết đối với người phạm tội ngoại tình (Phuc 22:22; Lê 20:10). Kẻ chống nghịch Chúa đưa ra luật này nhằm gài bẫy Ngài (Gi 8:1). Trong khi đó chúng ta không thấy trong Cựu-ước nhắc đến người nào đã bị ném đá vì tội ngoại tình, đây là luật của Đức Chúa Trời. Kinh nghiệm của Giô-sép (Mat 1:18-25) cho thấy rằng người Do-thái thường ly dị hơn là ném đá để giải quyết người vợ ngoại tình.


Tại sao Đức Chúa Trời truyền mạng lịnh người nam hoặc người nữ phạm tội ngoại tình phải bị ném đá chết? Tất nhiên đây là một gương để cảnh cáo dân sự, vì ngoại tình làm băng hoại chính cấu trúc xã hội và gia đình. Nếu muốn có một xã hội đảm bảo và Hội thánh bền vững, phải có giao kết trong hôn nhân, và hứa chung thuỷ với nhau và với Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời bảo toàn dân Y-sơ-ra-ên bởi vì theo lời hứa Đấng Christ sẽ ra đời từ dân tộc ấy . Đức Chúa Trời chống nghịch việc ly dị trong dân Y-sơ-ra-ên vì nó làm cho dân tộc suy yếu và có phương hại đến sự ra đời của Đấng Mê-si-a (Ma 2:10-16).


Nhưng có một lý do khác để kết án tử hình: Việc xử tội chết người phạm tội cho phép người không phạm tội tự do lập gia đình lần nữa. Cái chết chấm dứt sự ràng buộc trong hôn nhân, vì hôn nhân là sự kết hiệp hai thể xác (Rô 7:1-3). Các thế hệ con cháu trong dân Y-sơ-ra-ên phải được tiếp tục lưu truyền, đó là điều thật quan trọng để họ có thể bảo vệ được sản nghiệp của cha ông mình (Dan 30:1-16).


Chúng ta nên để ý một sự kiện sau cùng trước khi kết thúc phần này: Việc Ly dị Môi-se cho phép trong Phuc 24:1-22 thực sự cắt đứt mối quan hệ hôn nhân ban dầu. Đức Chúa Trời cho phép người phụ nữ lập gia đình trở lại, và cuộc hôn nhân thứ hai của người nữ ấy không bị kể là ngoại tình. Người đàn ông thứ hai lập gia đình với cô ấy được gọi là “chồng” và không phải là kẻ ngoại tình. Điều này giải thích thế nào người đàn bà Sa-ma-ri có thể có năm đời chồng, và tuy đang sống với một người nhưng không phải là chồng (Gi 4:16-18). Rõ ràng tất cả năm lần hôn nhân ấy đều hợp pháp và đúng Kinh Thánh.


Điều này có nghĩa ly dị theo Kinh Thánh chia cắt mối liên hệ hôn nhân. Người nam không thể dùng luật pháp phá đổ mối quan hệ này, nhưng Đức Chúa Trời có thể phá đổ. Cùng một Đức Chúa Trời Đấng ban luật pháp để nối kết con người lại với nhau cũng có thể chia lìa họ. Đức Chúa Trời có thể làm điều đó nhưng con người không làm được.


Sau hết, Chúa Giê-xu phán rõ ràng Luật ly dị theo Môi-se là sự nhượng bộ về phần của Đức Chúa Trời. Luật hôn nhân đầu tiên của Đức Chúa Trời không có chỗ cho vấn đề ly dị, nhưng luật đó đã được đặt ra trước khi con người phạm tội. Hơn nữa, hai người sống với nhau thường xảy ra bất hoà, một hoặc cả hai người đều tìm sự an ủi ở nơi khác và vì vậy sẽ phạm tội, cho nên Đức Chúa Trời cho phép ly dị. Việc ly dị này bao gồm quyền tái hôn. Người Pha-ri-si không hỏi về sự tái hôn, vì điều này không thành vấn đề. Họ chấp nhận người trong cuộc sẽ tìm bạn đời khác, và điều này được luật pháp Môi-se cho phép.


3. Luật hôn nhân của Chúa chúng ta (Mat 19:9-15; Mat 5:31-32)

• (Mat 9:9-12). Khi Chúa Giê-xu phán “Vả Ta phán cùng các ngươi”, Ngài đang tuyên bố Ngài là Đức Chúa Trời vì chỉ có Đức Chúa Trời mới có thể thiết lập hoặc thay đổi các luật lệ hôn nhân. Ngài phán rằng hôn nhân là sự kết hiệp vĩnh viễn chỉ có thể bị tan vỡ vì tội ngoại tình. Chữ Thông Dâm trong Tân-ước bao gồm nhiều tội phạm về tình dục. Sự thông dâm được định nghĩa như là “quan hệ tình dục giữa hai người không cưới nhau” không được áp dụng ở đây, vì Chúa Giê-xu đang dạy về những người đã có gia đình.

Chúng ta có tin rằng 24.000 người nam phạm tội thông dâm theo sự lôi kéo của Ba-la-am (Dan 25:1-18) đều là những người chưa lập gia đình không? Có phải lời khuyên bảo trong Công 15:20,29 chỉ gởi cho các thành viên độc thân trong Hội thánh thôi sao?


Hôn nhân là sự kết hợp lâu bền giữa hai con người và chỉ có thể chấm dứt do: sự chết hoặc ngoại tình. (Tôi muốn kể luôn cả trừơng hợp đồng tính luyến ái và hành vi đồi bại khác). Con người không thể phá đổ sự kết hợp này, nhưng Đức Chúa Trời có thể làm được. Dưới Luật pháp Cựu-ước, tội nhân bị ném đá chết.

Nhưng Hội thánh ngày nay không giữ quyền hình phạt ấy (Rô 13:1-4).

Có phải tội ngoại tình và thông dâm phạm trong thời Luật pháp nghiêm trọng hơn ngày hôm nay chăng? Hẳn nhiên là không! Nếu có thể nói ngày nay những tội lỗi như vậy thậm chí còn tệ hại hơn trong ánh sáng đầy trọn của ân điển Đức Chúa Trời mạc khải mà chúng ta nhận được qua Chúa Giê-xu Christ.


Kết luận dường như ly dị trong Tân-ước đồng nghĩa với sự chết trong Cựu-ước: Nó cho phép người không phạm tội tự do tái hôn.


Hãy lưu ý luật mới của Chúa chúng ta về hôn nhân và ly dị đặt cơ sở trên ba điều luật trước. Từ Luật hôn nhân nơi vườn Ê-đen Ngài đưa ra nguyên tắc: hôn nhân là sự kết hợp hai con người và chỉ chấm dứt do nguyên nhân một trong hai người chết đi, và chỉ một mình Đức Chúa Trời có thể cho phép kết thúc cuộc hôn nhân đó. Từ điều răn thứ bảy Ngài đưa ra nguyên tắc: ngoại tình thực sự làm tan vỡ hôn nhân. Từ Luật Ly Dị của Môi-se Ngài đưa ra nguyên tắc: Đức Chúa Trời có thể cho phép ly dị và chấm dứt hôn nhân, và người không phạm tội có thể tái hôn mà không mắc tội ngoại tình.


Lời dạy của Chúa cho thấy rằng chỉ có một điểm cơ bản theo lời Chúa cho phép ly dị, đó là tội ngoại tình (thông dâm). Nếu hai người ly dị vì bất cứ lý do nào khác, rồi tái hôn, họ sẽ bị định tội là ngoại tình.


Chúa Giê-xu không dạy rằng người phạm tội phải ly dị. Tất nhiên giữa hai người có thể tha thứ, kiên nhẫn khuyên lơn sửa dạy và nối lại mối tương giao bị gãy đổ. Đây là giải pháp mà các tín hữu Cơ-đốc giải quyết vấn đề. Nhưng buồn thay bởi lòng chúng ta cứng cỏi, đôi khi không thể hàn gắn sự đổ vỡ để cứu vãn tình trạng hôn nhân. Ly dị là sự chọn lựa cuối cùng chớ không phải là giải pháp trước nhất.


Những cuộc sống lứa đôi hạnh phúc không phải là ngẫu nhiên. Những cuộc hôn nhân ấy là kết quả của sự cam kết, yêu thương, hiểu biết lẫn nhau, hy sinh và chịu khó làm việc. Nếu vợ chồng làm tròn lời đính ước, họ sẽ tận hưởng sự gắn bó ngày càng nồng thắm đủ làm họ thoả mãn và giữ họ chung thuỷ với nhau. Trừ khả năng cám dỗ bất chợt đến, không một người chồng hoặc vợ nào nghĩ đến mối liên hệ với người khác, với điều kiện là mối dây ràng buộc của họ ngày càng sâu đậm và sung mãn. Và tình yêu trong sáng của chồng hoặc vợ là vũ khí mạnh mẽ chống lại cám dỗ bất chợt xảy đến.


Phản ứng về lời phán dạy của Chúa Giê-xu Christ cho thấy họ không đồng ý với Ngài.Họ lý luận “Nếu phận người nam phải xử với vợ mình như vậy, thì thà không cưới vợ là hơn!” Chúa Giê-xu không muốn họ xem ly dị là một “sai lầm” vì lúc ấy họ không có thái độ nghiêm túc đối với hôn nhân.


• Trong Mat 19:12, Chúa Giê-xu phán rõ rằng mỗi người nam (và nữ) phải xem xét ý muốn của Đức Chúa Trời dạy về hôn nhân. Một số người sẽ không lập gia đình vì cớ không có khả năng sinh sản bẩm sinh. Những người khác không lập gia đình vì gánh lấy trách nhiệm trong xã hội họ đã “mất khả năng sinh sản từ tay người ta”. Đứa con một phải chăm sóc cha mẹ cao tuổi có thể là hình ảnh trong lãnh vực này. Giống như Phao lô, một số người sống độc thân để có thể hầu việc Đức Chúa Trời tốt hơn. (ICôr 7:7).


• (Mat 19:13-15) Thật phù hợp cho Lời dạy của Chúa chúng ta về hôn nhân với phước hạnh con cháu nối dõi là hậu tự Đức Chúa Trời ban cho những người đã lập gia đình.Chúa Giê-xu không xem con cái như là tai họa hoặc gánh nặng. “Hai người sẽ trở nên một thịt” được ứng nghiệm qua việc sinh sản con cái, và tình thương của cha mẹ được trưởng thành và sâu sắc hơn khi nó được chan hoà với mọi thành viên trong gia đình.


Cha mẹ đem con cái đến với Chúa Giê-xu để Ngài có thể chúc phước cho chúng. Ở đây không có ý niệm gì về phép Báp-têm hoặc sự cứu rỗi. Con trẻ chưa đạt đến tuổi hiểu biết (Es 7:16) chắc chắn được cứu bởi sự chết của Chúa Giê-xu Christ (Rô 5:17-21). Trẻ em sinh ra vốn là tội nhân (Thi 51:5) nhưng nếu chúng chết trước khi hiểu biết, chúng được tái sinh và được vào thiên đàng (IISa 12:23; Thi 23:6).


Tất nhiên con trẻ có đặc ân được Chúa Giê-xu bồng ẵm trên tay Ngài và cầu nguyện cho chúng. Ngày nay việc dâng trẻ tại nhà thờ mhằm làm theo gương tốt này. Thật hạnh phúc cho những trẻ em có cha mẹ lập gia đình trong ý muốn của Đức Chúa Trời, cha mẹ ấy luôn vâng lời Chúa, đồng thời dẫn chúng đến với Chúa Giê-xu để Ngài ban phước.



 


16. MỆNH LỆNH CỦA NHÀ VUA (Mat 19:16-20:34)


Không ai theo phò Vua lại không phải trả giá. Rốt cuộc, Ngài đã lên Thập tự giá vì cớ tội chúng ta! Chúng ta có quyền thoát khỏi hy sinh và đau khổ không? Trong phần này, Chúa phán dạy nhiều mệnh lệnh thích đáng dành cho những ai muốn tin cậy Ngài và trở thành môn đệ của Ngài.


1. Chúng ta phải hết lòng kính mến Đấng Christ (Mat 19:16-26)

Ba sách Phúc-Âm đầu tiên đều chép sự kiện này. Khi kết hợp các sự kiện, chúng ta biết người đàn ông này là một vị quan trẻ tuổi, giàu có - có thể là quan cai nhà hội. Chắc chắn chúng ta có thể khen ngợi người đàn ông trẻ tuổi này vì đã công khai tìm gặp Đấng Christ và hỏi Ngài về sự sống đời đời. Dường như chàng thanh niên này không giấu giếm điều gì và sẵn lòng lắng nghe lời phán của Chúa.Nhưng thật buồn, ông ta đã quyết định sai.


Dường như sự việc diễn tiến xoay quanh một số câu hỏi quan trọng.

“Tôi phải làm việc lành chi cho được sự sống đời đời?” (Mat 19:16-17). Chàng thanh niên bày tỏ lòng thành thật, mặc dầu theo anh ta, để đạt được sự cứu rỗi chỉ tập trung vào việc làm chớ không phải đức tin. Nhưng đây là điều người Do-thái thời đó mong đợi. Cho dù chàng có địa vị xã hội, đạo đức, và tôn giáo, nhưng chàng cảm thấy cần phải làm một điều gì nữa.


Nhưng lời đáp của Chúa không tập trung vào sự cứu rỗi. Ngài buộc chàng trai trẻ suy nghĩ cách nghiêm túc về chữ nhân lành người dùng để xưng danh Chúa. Chúa Giê-xu phán, “Chỉ có Đức Chúa Trời là Đấng nhân lành, Ngươi có tin Ta là Đấng nhân lành và là Đức Chúa Trời chăng?” 

Nếu Chúa Giê-xu chỉ là một thầy dạy đạo trong lịch sử, lời của Ngài chẳng có giá trị gì hơn những giáo huấn của bất kỳ bậc lãnh đạo tôn giáo nào khác. Nhưng nếu Chúa Giê-xu là Đấng nhân lành, tất nhiên Ngài là Đức Chúa Trời, vì vậy chúng ta nên chú tâm nghe lời Ngài dạy.


Tại sao Chúa Giê-xu nhắc đến các điều răn? Có phải Ngài thực sự muốn dạy con người nhận được sự sống đời đời là do làm theo Luật pháp của Đức Chúa Trời? Nếu ai giữ được các điều răn, tất nhiên người đó sẽ vào được Nước thiên đàng. Nhưng không ai giữ trọn vẹn luật pháp của Đức Chúa Trời.

“Vì chẳng có một người nào bởi việc làm theo luật pháp mà sẽ được xưng công bình trước mặt Ngài, vì luật pháp cho người ta biết tội.” (Rô 3:20). Chúa Giê-xu không giới thiệu Luật pháp để chàng thanh niên biết cách làm theo hầu được cứu rỗi, nhưng để chàng ta thấy mình cần được cứu. Luật Pháp là chiếc gương soi chỉ cho thấy hiện trạng của chúng ta (Gia 1:22-25).


“Những điều răn gì?” (Mat 19:18-19)

Có phải người trai trẻ đang tránh né vấn đề Chúa đặt ra không ? Tôi không nghĩ như vậy. Nhưng ông ta đang phạm một sai lầm, vì chẳng ai có thể tách rời Luật Pháp của Đức Chúa Trời ra từng phần riêng rẻ được. Phân biệt “coi trọng” hoặc “xem nhẹ” một điều răn nào trong Luật pháp của Đức Chúa Trời là lạc mất mục đích toàn vẹn của luật pháp. “Vì người nào giữ trọn luật pháp, mà phạm một điều răn, thì cũng đáng tội như đã phạm hết thảy” (Gia 2:10). Luật Pháp đại diện quyền tể trị của Đức Chúa Trời, không vâng theo điều gì dù có thể nghĩ rằng nhỏ nhặt chúng ta vẫn chống nghịch lại Ngài.


Dĩ nhiên, vị quan trai trẻ chỉ nghĩ đến sự vâng lời bề ngoài. Anh ta quên rằng thái độ nằm ở trong lòng. Trong Bài Giảng Trên Núi, Chúa Giê-xu đã dạy ghen ghét đồng nghĩa với giết người, và tham muốn xác thịt là phạm tội ngoại tình.Chúng ta vui vì người trai trẻ này có nhân cách và đạo đức tốt. Nhưng tiếc là ông ta không nhận biết tội lỗi của mình, ăn năn và tin nhận Đấng Christ.


Chúa Giê-xu không trích dẫn điều răn đặc biệt phù hợp với ông ta, “Ngươi chớ tham lam” (Xu 20:17). Đáng lẽ ra anh ta nên suy xét tất cả điều răn và không chỉ xem xét những điều răn Chúa Giê-xu nêu ra mà thôi. Có phải anh ta đang tìm kiếm cách nào dễ dàng để theo Chúa? Phải chăng anh ta đang lừa dối chính bản thân mình? Tôi tin anh ta bày tỏ lòng thành thật, trong khả năng anh ta có thể biết được. Nhưng anh ta không để cho ánh sáng lời Đức Chúa Trời xuyên thấu vào lòng mình. Chúa Giê-xu cảm thấy yêu mến người này (Mac 10:21), vì vậy Ngài tiếp tục tìm cách giúp đỡ anh ta.


“Còn thiếu chi cho tôi nữa?” (Mat 19:20-22).

Trong Kinh Thánh không có chỗ nào dạy chúng ta rằng một tội nhân nhờ bán hết gia tài mình và phân phát tiền bạc cho kẻ nghèo mà được cứu. Chúa Giê-xu không hề dạy Ni-cô-đem làm điều này, hoặc bất kỳ tội nhân nào được ghi lại trong các sách Phúc-Âm.

Chúa Giê-xu biết rằng anh ta tham lam yêu của cải vật chất. Qua việc yêu cầu anh ta bán gia tài mình, Chúa Giê-xu đang buộc anh ta tra xét lại lòng mình và quyết định đâu là ưu tiên trong đời mình. Có được mọi phẩm chất đáng khen ngợi, người trai trẻ này vẫn chưa kính mến Đức Chúa Trời hết lòng. Của cải vật chất là cứu cánh trong đời sống anh ta. Anh không thể làm theo lời phán của Chúa, “Hãy đi bán... đến mà theo...”


Chàng thanh niên buồn rầu bỏ đi, nhưng có thể anh ta đã ra đi trong sự vui mừng và bình an. Chúng ta không thể yêu thương và phục vụ hai chủ (Mat 6:24). Chúng ta có thể biết chắc ngoài Chúa Giê-xu Christ, ngay cả của cải vật chất trong đời sống cũng không đem lại sự vui mừng hoặc thoả lòng dài lâu. Sở hữu những tài vật là điều tốt miễn là chúng ta không đánh mất những giá trị mà tiền bạc không thể mua được. Nếu cuối cùng vị quan trẻ tuổi không đến với Đấng Christ, ông ta sẽ chết trong sự hư mất, ông ta chỉ là một trong những “người giàu nhất” trong nghĩa trang mà thôi.


“Vậy thì ai được cứu?” (Mat 19:23-26).

Dân Do-thái thời đó tin rằng giàu có là bằng chứng Đức Chúa Trời ban phước. Bằng chứng này họ dựa trên lời hứa của Đức Chúa Trời ban cho dân tộc Do-thái từ buổi đầu của lịch sử dân tộc. Thật Đức Chúa Trời phán hứa ban cho ơn phước vật chất nếu họ vâng theo lời Ngài, và cất đi của cải họ có nếu họ không vâng theo mạng lịnh Ngài (Phuc 26:1-28:68). Nhưng trong buổi đầu khai sinh dân tộc, thưởng phạt là cách duy nhất Đức Chúa Trời dùng để dạy họ. Chúng ta dạy dỗ con cái chúng ta cũng như vậy.


Tuy nhiên, thái độ thành tâm vâng lời không tuỳ thuộc vào sự ham thích được phần thưởng hay sợ bị hình phạt. Động cơ vâng lời xuất phát bởi lòng kính yêu Chúa. Trong cuộc sống và lời dạy dỗ của Ngài, Chúa Giê-xu tìm cách chỉ cho con người biết rằng ơn phước thuộc linh quan trọng hơn nhiều so với của cải vật chất có được. Đức Chúa Trời nhìn thấy trong lòng, và Đức Chúa Trời muốn xây dựng nhân cách con người. Sự cứu rỗi là quà tặng của Đức Chúa Trời đáp lại lòng tin cậy của con người. Giàu có vật chất không phải là sự bảo đảm Đức Chúa Trời đẹp lòng về con người.


Là người Giu-đa mẫu mực, các môn đệ lấy làm ngạc nhiên về lời phán dạy của Chúa Giê-xu về người giàu. Câu hỏi họ nêu lên phản ánh quan điểm thần học của họ: “Nếu người giàu không thể được cứu, còn có hy vọng nào cho chúng ta?” Dĩ nhiên, Chúa Giê-xu không phán rằng sở hữu của cải làm cho con người không thể thấy được Nước Đức Chúa Trời.

Một vài nguyên bản của câu Kinh Thánh Mac 10:24 viết, “Thật khó vào Nước thiên đàng cho những ai đặt lòng tin cậy vào sự giàu có” Đây chắc chắn là nội dung lời dạy của Chúa chúng ta. Áp-ra-ham là người giàu có, dầu vậy ông có đức tin lớn . Sở hữu của cải là điều tốt nếu của cải không làm chủ bạn.


Chúng ta không thể theo phò Vua và sống theo của cải đời này. Không thể hầu việc Đức Chúa Trời lại hầu việc cho tiền bạc nữa. Tham tiền bạc là cội rễ của mọi điều ác (ITi 6:6-10). Chúa Giê-xu Christ phán truyền cho mọi người muốn theo Ngài phải hết lòng kính yêu Ngài.


2. Chúng ta phải tuyệt đối vâng lời Ngài (Mat 19:27-30)

Phi-e-rơ nhanh chóng nhận ra sự khác biệt giữa vị quan giàu có và các môn đệ nghèo khó: “Chúng tôi đã bỏ mọi sự mà theo Thầy vậy thì chúng tôi sẽ được chi?” Chúa Giê-xu cho họ một lời hứa lớn lao về phần thưởng cả trong đời này lẫn trong đời sau.

Họ sẽ đồng ngồi trên ngôi cai trị khi Chúa lập ngôi nước Ngài. Bất cứ điều tốt nào họ từ bỏ vì cớ Ngài họ sẽ được lãnh bội phần hơn. Nói cách khác, họ không hi sinh - nhưng đang đầu tư vào Nước Trời. Nhưng không phải mọi lợi ích đều nhận được trong đời này.


Tuy nhiên, Chúa Giê-xu tìm thấy trong câu hỏi của Phi-e-rơ nói lên động cơ hầu việc sai. Đây là lý do Ngài cảnh cáo thêm rằng một số người có thể đứng đầu theo mắt họ nhưng lại đứng cuối trong sự phán xét, và nhiều người đang ở hàng cuối sẽ vượt lên hàng đầu. Lẽ thật này được nêu rõ chi tiết trong thí dụ về những người làm công trong vườn nho.


3. Người làm công trong vườn nho (Mat 20:1-16)

Thí dụ nêu ra ở đây không có liên quan gì đến sự cứu rỗi. Đồng xu (công giá của một ngày làm việc thời đó) không tượng trưng cho sự cứu rỗi, vì chẳng ai làm việc để được sự cứu rỗi. Thí dụ ấy cũng không nói đến phần thưởng, vì tất cả chúng ta sẽ không nhận phần thưởng giống nhau. “Ai nấy sẽ nhận phần thưởng tuỳ theo công việc mình đã làm” (ICôr 3:8).


Thí dụ nhấn mạnh thái độ đúng đắn trong sự hầu việc. Thật là quan trọng khi biết rằng ngày hôm ấy thực sự có hai hạng người làm công: hạng người muốn có một hợp đồng làm việc với tiền công một xu một ngày, và hạng người không có một hợp đồng đồng ý nhận bất cứ điều gì ông chủ cho là phải. Hạng người làm công đầu tiên khăng khăng mặc cả với chủ.


Điều này giải thích lý do người chủ trả cho công nhân như ông đã làm: Chủ muốn những người được thuê đầu tiên (nhất mực đòi thỏa thuận) thấy số tiền ông trả cho những công nhân được thuê trễ hơn. Đó là cách duy nhất người chủ có thể bày tỏ cho người làm công thấy sự hào phóng của chủ.


Bạn hãy tự đặt mình vào vai trò người làm công được thuê đầu tiên nhưng nhận tiền công cuối cùng. Mỗi người trong số họ được nhận một xu, vì đó là số tiền đã chấp nhận trước khi vào làm việc. Nhưng hãy tưởng tượng họ ngạc nhiên như thế nào khi thấy các công nhân được thuê sau cùng mỗi người nhận một xu! Điều này có nghĩa là mỗi người trong số họ nhận được 12 xu!


Nhưng những người vào làm lúc ba giờ chiều cũng nhận một xu - vì chỉ có ba giờ làm việc thôi. Những người đứng ở cuối hàng nhanh chóng tính lại tiền lương của mình: bốn xu cho một ngày làm việc. Khi người vào làm lúc trưa cũng nhận một xu, điều này cắt giảm đáng kể số tiền công của những người có hợp đồng, vì bây giờ họ sẽ chỉ nhận hai xu.


Nhưng người chủ chỉ trả cho mỗi người một xu tiền công. Dĩ nhiên, họ lằm lằm cùng chủ nhà! Nhưng họ không lý luận gì, vì đã thỏa thuận làm việc với tiền công một xu. Họ nhận những gì đã đòi hỏi từ đầu. Nếu tin vào sự công bình của chủ, chắc chắn họ sẽ nhận nhiều hơn. Nhưng họ đã đòi thỏa thuận công giá trước khi làm việc.


Bài học dành cho các môn đệ Đấng Christ thật rõ ràng. Chúng ta không nên hầu việc Ngài vì muốn nhận phần thưởng như mong ước, và không nên yêu cầu phải biết những gì chúng ta sẽ nhận. Đức Chúa Trời vô cùng rộng rời và đầy lòng nhân từ luôn ban cho tốt hơn điều chúng ta đáng được hưởng.


Bây giờ chúng ta có thể hiểu được những hiểm họa đằng sau câu hỏi của Phi-e-rơ chép trong câu 27. Trước hết, nếu thật sự không xứng đáng, chúng ta không nên “tưởng” (Mat 20:10) rằng sẽ nhận được nhiều hơn. Có thể làm công việc của Cha trên trời nhưng đồng thời không lấy lòng tốt làm theo ý muốn của Ngài (Eph 6:6). Nếu chúng ta hầu việc Ngài chỉ vì lợi ích (tạm thời lẫn đời đời), chúng ta sẽ hụt mất những phước hạnh tốt nhất mà Ngài dành ban cho chúng ta. Chúng ta phải nhờ cậy Ngài tuyệt đối và tin rằng Ngài luôn luôn ban cho điều tốt nhất.


-Có nguy cơ dẫn đến sự kiêu ngạo. Phi-e-rơ hỏi, “Chúng tôi sẽ được chi?”. Thí dụ này đã cảnh cáo ông ta, “Làm thế nào ngươi biết ngươi sẽ nhận được điều gì?”Hãy coi chừng tính quá tự tin về phần thưởng Đức Chúa Trời sẽ ban cho, vì những kẻ đầu sẽ trở nên rốt! Cũng như vậy, đừng nản chí thất vọng vì những người tự xem mình là “tôi tớ không ra chi” cuối cùng sẽ nhận tiền công trước nhất.


Hãy coi chừng sự nguy hiểm khi nhìn những người làm công khác và so sánh đo lường với họ. Phao-lô nhắc nhở chúng ta trong ICôr 4:5 “Chớ xét đoán sớm quá”. Chúng ta nhìn thấy người làm và công việc của họ, nhưng Đức Chúa Trời nhìn thấy trong lòng.


Cuối cùng, chúng ta phải coi chừng kẻo trách cứ Đức Chúa Trời và cảm thấy mình bị bỏ rơi. Nếu các người làm công nhận việc từ sáng sớm tin cậy và không mặc cả với chủ, chắc chắn chủ đã trả cho họ nhiều hơn. Chủ là người rộng rãi nhưng họ không tin cậy. Họ không thấy vui khi người khác nhận nhiều hơn, thay vào đó họ ganh tị và lằm bằm. Lòng nhân từ của chủ không đem họ đến sự ăn năn (Rô 2:4). Điều đó vạch trần bản chất thật trong tâm địa họ: Họ sống vị kỷ! Bất cứ khi nào thấy một tôi tớ lằm bằm, chúng ta biết anh ta không đầu phục trọn vẹn ý muốn của chủ.


4. Chúng ta phải làm rạng danh Ngài (Mat 20:17-34)

Lần thứ ba, Chúa Giê-xu thông báo với các môn đệ Ngài sẽ bị bắt, bị đóng đinh và sống lại (Mat 16:21; Mat 17:22). Trong những lần trước, Ngài không chỉ rõ sẽ chết cách nào. Nhưng lần này Ngài đề cập rõ về thập tự giá. Ngài cũng bày tỏ Ngài sẽ sống lại, nhưng sứ điệp của Ngài không thấu đến lòng các môn đệ.


Trái ngược với lời phán về sự chết và đau đớn của Ngài chúng ta nghe thấy lời thỉnh cầu của Gia-cơ, Giăng và mẹ của họ là Sa-lô-mê. Chúa Giê-xu nói về thập tự giá, nhưng họ quan tâm đến địa vị. Họ muốn dành chỗ ngồi quan trọng trong nước Ngài! Chúng ta thấy rõ lòng hớn hở của bà Sa-lô-mê đằng sau lời yêu cầu này, và nỗi thích thú của bà ấy khi tiến cử con của mình cho Chúa.


Trước khi phê phán việc làm của họ, chúng ta hãy lưu ý một số đặc điểm nổi bậc trong sự kiện này. Trước hết họ thật sự tin vào lời cầu xin và mạnh dạn tin vào lời Chúa Giê-xu phán hứa về việc ngồi trên các ngôi (Mat 19:28). Chữ “muôn vật đổi mới” trong câu ấy có nghĩa “sự tạo dựng mới” và ám chỉ đến trời mới đất mới mà Chúa Giê-xu và người theo Ngài sẽ cai trị khi Ngài trở lại trần gian. Chắc chắn về phần họ phải tin rằng Ngài sẽ thiết lập các ngôi vinh hiển này, vì Ngài vừa mới cho họ biết rằng Ngài sắp bị đóng đinh.


Nhưng có một vài điểm sai trong lời cầu xin của họ. Bắt đầu từ sự thiếu hiểu biết. Chúa Giê-xu đáp, “Ngươi không hiểu điều mình cầu xin”. Bà Sa-lô-mê không nhận biết rằng con đường dẫn đến vinh hiển phải trải qua khó khăn. Gia-cơ là môn đệ đầu tiên tử vì đạo, và Giăng phải sống những ngày gian khổ trên đảo Bát-mô. Cả ba mẹ con đều thích làm theo ý muốn của mình, chớ không theo ý muốn của Đức Chúa Trời, họ muốn đạt được phần thưởng theo cách của mình.


Một yếu tố khác, họ thiếu sự hướng dẫn của Chúa. Họ suy nghĩ theo cách thế gian: Gia-cơ và Giăng muốn “ra oai” với các môn-đệ khác theo cách những quan cai trị ngoại bang không được cứu hống hách với thần dân. Lời yêu cầu của họ theo ý muốn xác thịt (hưởng thụ), bởi vì họ đang cầu xin vinh hiển cho riêng mình, chớ không cho Đức Chúa Trời. Rất có thể họ thấy nhẹ nhõm khi bày tỏ với Chúa Giê-xu điều họ mong muốn trước khi Phi-e-rơ thực hiện!


Sau hết, lời yêu cầu này không những thuộc thế gian và xác thịt đời này, nó còn thuộc về ma quỷ. Lời yêu cầu phát sinh bởi lòng kiêu ngạo. Quỷ Sa-tan đã tìm kiếm ngôi vị (Es 14:12-15) và thất bại. Quỷ Sa-tan đã dâng cho Chúa Giê-xu một ngôi nước nhưng Ngài đã từ chối (Mat 4:8-11). Quỷ Sa-tan thổi phồng cứu cánh (ngôi nước) chớ không đá động gì đến cách thức đạt đến cứu cánh ấy. Chúa Giê-xu khuyến cáo Sa-lô-mê và hai con trai của bà rằng ngôi vị đặt biệt chỉ dành sẵn cho những người xứng đáng. Không có ngõ tắt nào để vào Nước Đức Chúa Trời cả.


Lời thỉnh cầu này gây cho các môn đệ còn lại “căm giận” - có lẽ vì họ không nghĩ đến điều đó trước! Sự khôn ngoan từ trên cao luôn dẫn đến hoà thuận sự khôn ngoan của thế gian đưa đến tranh cạnh (Gia 3:13-4:3). Ích kỷ chỉ đem lại bất hoà và chia rẽ.


Mối bất hoà này tạo cho Chúa Giê-xu có cơ hội dạy các môn đệ bài học thực tế về vai trò lãnh đạo. Trong vương quốc của Ngài, chúng ta không nên theo gương của đời này. Gương noi theo của chúng ta là Chúa Giê-xu, chớ không phải vị chủ tịch tập đoàn hoặc một người nổi tiếng giàu có nào đó. Chúa Giê-xu đến thế gian trong vai trò là tôi tớ vì vậy, chúng ta nên phục vụ lẫn nhau. Ngài đến thế gian để phó sự sống mình do đó chúng ta nên phó sự sống mình để phục vụ Ngài và người khác.


Chữ tôi tớ trong Mat 20:26 có nghĩa đơn giản là “một đầy tớ”. Danh từ “Chấp sự” xuất xứ từ chữ này. Chữ tôi tớ trong Mat 20:27 có nghĩa là “tôi mọi”. Không phải tôi tớ nào cũng là tôi mọi, nhưng tất cả tôi mọi đều là tôi tớ. Trong Hội thánh ngày nay chúng ta thật buồn khi biết rằng có nhiều người nổi tiếng, nhưng có ít tôi tớ. Nhiều người muốn “cậy quyền thế cai trị người khác” (Mat 20:25), nhưng ít người muốn mang khăn bưng chậu rửa chân người khác.


Chìa khóa đạt đến sự cao trọng không tìm thấy ở địa vị hoặc quyền thế, nhưng ở tính chất. Chúng ta đạt được ngôi nước do việc hy sinh cả mạng sống chúng ta chớ không do cầu xin trên môi miệng. Chúng ta phải đặt mình vào địa vị của Chúa Giê-xu Christ trong tâm tình phục vụ chịu khổ, vì chính Ngài cũng không thể đạt được vinh hiển nếu không bởi con đường thập tự giá. Lời chú giải hay nhất cho vấn đề này chép trong Phi 2:1-18.


Để lời cầu xin có giá trị cao hơn, chúng ta phải thêm lên trong sự hầu việc. Nếu chúng ta phục vụ Ngài và anh em mình, chúng ta sẽ không cầu xin theo ý riêng mình cách vị kỷ. Nếu chúng ta thành tâm nói rằng, “Lạy Chúa xin Ngài dạy, kẻ tôi tớ Ngài đang lắng nghe”, lúc ấy Ngài sẽ phán với chúng ta, “Hỡi kẻ tôi tớ hãy nói, Đức Chúa Trời ngươi đang nghe”. Nếu lời cầu xin không làm chúng ta trở nên những tôi tớ tốt hơn, thì có gì đó chưa đúng trong các lời cầu xin ấy.


Lời cầu xin có làm chúng ta dễ dàng sống với người khác không? Hai môn đệ đã cầu xin theo ý riêng mình và biến mối thông công chung trở thành hỗn loạn! Lời cầu xin có khiến chúng ta giống Chúa Giê-xu Christ nhiều hơn không? Lời cầu xin có buộc chúng ta phải trả giá nào không? Cầu xin trong ý muốn Đức Chuá Trời không có nghĩa là sự thoát ly thực tế trong chốc lát nhưng nó hàm chứa hành động cặp theo. Nếu lời cầu xin không đem chúng ta đến gần với Thập tự giá hơn, chúng ta đã đi ra ngoài ý muốn của Đức Chúa Trời.


Bà Sa-lô-mê đã kinh nghiệm bài học này. Lúc Chúa Giê-xu bị đóng đinh trên thập tự giá, có bà đứng bên chân thập tự Gi 19:25, (“chị em của mẹ Ngài”) và chia sẻ nỗi đớn đau của Cứu Chúa. Bà không thấy hai ngai bên hữu và bên tả Chúa - bà chỉ thấy hai tên cướp trên hai cây thập tự hai bên Chúa . Và bà nghe Chúa Giê-xu giao con trai của bà là Giăng cho Ma-ri mẹ Ngài. Bà bị cáo trách vì tính ích kỷ của mình, và bà yên lặng thuận phục.


Sự kiện kết thúc chương 20 của sách Ma-thi-ơ là việc Chúa chữa lành cho Ba-ti-mê và bạn của anh ta cũng bị mù (Mac 10:46-52). Ở đây Chúa Giê-xu thực hành những gì Ngài vừa dạy các môn đệ. Ngài trở nên tôi tớ đối với hai người ăn xin mù bị người khác coi khinh. Đám đông vây quanh Chúa Giê-xu cố tìm cách bảo hai người mù nín thinh. Nhưng Chúa Giê-xu đã cảm thương và chữa lành cho họ. Ngài là người phục vụ ngay cả cho kẻ ăn xin.


Chương sách này chứa đựng một số lời dạy khó cho chúng ta chấp nhận và thực hiện. Nếu chúng ta yêu những vật ở thế gian này, chúng ta không thể hết lòng yêu Đức Chúa Trời được. Nếu không hoàn toàn thuận phục ý chỉ Đức Chúa Trời, chúng ta không thể vâng theo Ngài trọn vẹn được. Nếu chúng ta tìm kiếm vinh hiển cho riêng mình, hoặc nếu so sánh mình với anh em khác, chúng ta không thể làm vinh hiển danh Ngài.


Chúng ta không thể nhìn biết Chúa Giê-xu là Vua nếu không yêu kính Ngài hết lòng, vâng lời Ngài trọn vẹn, và hết sức làm sáng danh Ngài. Nếu chúng ta làm được những điều này, chúng ta được chia phần với Ngài trong sự sống và vui mừng của Ngài, rồi một ngày kia chúng ta sẽ đồng trị vì cùng Ngài!



 


17. SỰ PHÁN XÉT CỦA VUA (Mat 21:1-22:14)


Bây giờ chúng ta đi vào phần chính yếu thứ tư của Phúc-âm Ma-thi-ơ, “Vua Bị Chối Bỏ”. Trong phần này (Mat 21:1-22:14), Đức Chúa Giê-xu chỉ rõ tội lỗi dân Y-sơ-ra-ên và giải thích tại sao các nhà lãnh đạo giáo hội chối bỏ Ngài và sứ điệp của Ngài.


1. Mù lòa thuộc linh (Mat 21:1-11)

Vì là ngày lễ Vượt Qua cho nên có lẽ có khoảng 2 triệu người bên trong và chung quanh thành Giê-ru-sa-lem. Đây là lần duy nhất trong chức vụ, Chúa Giê-xu thực sự lên kế hoạch bày tỏ mình ra giữa công chúng. Mãi cho đến lúc này, Ngài nghiêm cấm mọi người không được nói Ngài là ai, và Ngài chủ động tránh không xuất hiện ở nơi đông người.


Tại sao Chúa Giê-xu chuẩn bị cho sự bày tỏ này? Trước hết Ngài vâng theo lời Đức Chúa Trời và làm ứng nghiệm lời tiên tri trong Xa 9:9. Có thể lời tiên tri này chỉ dành cho Chúa Giê-xu Christ, vì Ngài là người duy nhất có đủ tiêu chuẩn làm Vua Y-sơ-ra-ên. Thường thường chúng ta không gắn liền con lừa không ra chi với vương quyền, nhưng đây là con vật thuộc hoàng gia của triều đình Do-thái (IVua 2:32). Thực sự có hai con vật được nhắc tới, lừa cái và lừa con. Chúa Giê-xu cỡi trên lưng lừa con và lừa mẹ đi bên cạnh.


Bằng cách so sánh lời trích dẫn của Ma-thi-ơ với nguyên văn lời tiên tri trong Xa-cha-ri, chúng ta thấy một vài sự kiện thú vị. Lời tiên tri của Xa-cha- ri mở đầu bằng, “Hãy mừng rỡ cả thể!” nhưng Ma-thi-ơ lượt bỏ phần này. Khi Chúa Giê-xu vào thành Giê-ru-sa-lem, Ngài khóc! Làm thế nào Ngài (hoặc dân chúng) có thể mừng rỡ khi sự đoán phạt đang đến gần?


Ma-thi-ơ cũng bỏ phần “Ngài là công bình và ban sự cứu rỗi.” Cứu Chúa chúng ta vào thành Giê-ru-sa-lem là một cử chỉ của lòng thương xót và nhân từ, chớ không phải là hành động của sự công bình hoặc đoán phạt. Ngài đã ban ơn cứu rỗi họ, nhưng họ từ chối không nhận lấy (Gi 1:11). Dân Y-sơ-ra-ên lại nhìn thấy Vua, Ngài sẽ đến trong đại quyền đại vinh (Kh 19:11).


Con lừa con này chưa được ai cỡi (Mac 11:2), tuy vậy nó bằng lòng mang gánh nặng trên lưng nó. Dĩ nhiên sự hiện diện của lừa mẹ giúp đỡ nó. Nhưng chúng ta nhớ rằng người cỡi lừa là Vua Đấng “có quyền cai trị công việc tay Chúa làm... tất cả loài chiên, bò, chim trời, cá biển và các loài thú rừng”(Thi 8:6-7).

Việc Chúa Giê-xu cỡi con vật này và điều khiển nó là một bằng chứng khác chứng minh Vương quyền của Ngài.


Lý do thứ hai giải thích việc Chúa Giê-xu công khai bày tỏ về Ngài giữa đám đông: Điều này buộc các nhà lãnh đạo Do-thái phải hành động. Khi thấy dân chúng tự phát diễu hành, họ kết luận rằng phải giết Chúa Giê-xu (Gi 12:19). Các lời tiên tri trong Thánh Kinh chép rằng Chiên Con Đức Chúa Trời phải bị đóng đinh vào ngày lễ Vượt qua. Cuộc diễu hành của Đấng Christ được nhiều người mến mộ tung hô đã kích động nhà cầm quyền ra tay hành động.


Dân chúng tung hô Chúa Giê-xu là Vua của họ cả bằng lời nói lẫn việc làm. Họ hô to HÔ-SA-NA có nghĩa, “Bây giờ xin hãy cứu vớt! ”. Họ trích dẫn lời Kinh Thánh trong Thi 118:25-26, và thi-thiên này chắc chắn nói về Đấng Mê-si-a. Cuối tuần đó, Chính Chúa Giê-xu nhắc đến thi-thiên này và cho biết thi-thiên ấy nói về chính mình Ngài (Mat 21:42; Thi 118:22-23).


Chúng ta nhớ rằng đám đông dự lễ Vượt Qua bao gồm ít nhất là ba nhóm: Những người Giu-đa sống ở Giê-ru-sa-lem, đám đông đến từ Ga-li-lê, và những người thấy Chúa Giê-xu kêu La-xa-rơ sống lại (Gi 12:17-18). Tin tức về phép lạ này loan đi khắp nơi chắc chắn đã thu hút một đám dân đông như vậy. Dân chúng muốn chính mắt mình trông thấy người thực hiện phép lạ ấy.


Nhưng người Do-thái vẫn không nhận ra Chúa Giê-xu là Vua của họ. Điều gì đã làm cho dân Y-sơ-ra-ên đui mù thuộc linh như vậy? Trước hết các người dạy đạo đã cất khỏi họ lẽ thật trong lời Đức Chúa Trời và thay vào đó là những lời do con người đặt ra (Lu 11:52). Các bậc lãnh đạo không quan tâm lẽ thật họ chỉ thích bảo vệ lợi ích của riêng họ (Gi 11:47-53). Họ công khai tuyên bố một cách tối tăm cứng cỏi, “Chúng tôi không có Vua nào trừ ra Sê-sa!”. Ngay cả các phép lạ của Chúa cũng không làm họ tin được. Và họ càng chống nghịch lẽ thật bao lâu, họ càng trở nên mù lòa bấy nhiêu (Gi 12:35)


2. Đạo đức giả (Mat 21:12-22)

Chúa Giê-xu thực hiện hai hành động đoán phạt: Ngài dẹp sạch đền thờ, và rủa sả cây vả. Cả hai hành động trái ngược với cung cách bình thường trong chức vụ của Ngài, vì Ngài không đến thế gian để đoán xét, nhưng để cứu vớt kẻ có tội (Gi 3:17). Cả hai hành động này nói lên sự giả dối của dân Y-sơ-ra-ên: Đền thờ là hang trộm cướp, và dân tộc (được biểu thị bằng cây vả) không có trái. Sự tham tiền bên trong và sự vô sinh bên ngoài là những bằng chứng cho thấy sự giả dối của họ.


Dọn sạch đền thờ (Mat 21:12-16).

Chúa Giê-xu cũng có hành động tương tự lúc Ngài bắt đầu thi hành chức vụ (Gi 2:13-25). Bây giờ sau ba năm, đền thờ lại bị ô uế bởi việc “kinh doanh tôn giáo” của các nhà lãnh đạo giáo hội. Họ đã biến Hành Lang Cho Người Ngoại Bang thành chỗ cho người Giu-đa sống ở nước ngoài có thể đổi tiền và mua bán các con sinh tế. Việc làm lúc đầu như là một dịch vụ thuận tiện cho khách hành hương ở nơi xa đến chẳng bao lâu đã biến thành việc mua bán sinh lợi. Những người buôn bán đã ra giá cắt cổ và không ai có thể cạnh tranh hay phản đối họ được. Các nhà sử học cho chúng ta biết rằng Thầy tế lễ thượng phẩm An-ne là người quản lý sự nghiệp kinh doanh này, có các con trai của ông công tác nữa.


Mục đích của Hành Lang Cho Người Ngoại Bang trong đền thờ nhằm cho “những người ngoại” có cơ hội vào đền thờ để học biết về Đức Chúa Trời Chân thần từ nơi dân Y-sơ-ra-ên. Nhưng sự tồn tại của “chợ tôn giáo” làm cho nhiều người ngoại bang nhạy cảm quay lưng lại với lời làm chứng của người Y-sơ-ra-ên. Hành Lang Dành Cho Người Ngoại Bang được dùng làm nơi buôn bán vụ lợi, chớ không dùng cho công tác truyền giáo.


Khi Chúa Giê-xu gọi đền thờ là “Nhà Ta”, Ngài muốn khẳng định Ngài là Đức Chúa Trời. Khi Ngài gọi đền thờ là “Nhà Ta là nhà cầu nguyện”, Ngài muốn nhắc lại lời tiên tri Es 56:7. Toàn chương thứ 56 của sách Ê-sai tố cáo sự bất trung của các bậc lãnh đạo Y-sơ-ra-ên. Nhóm từ “hang trộm cướp” xuất xứ từ Gie 7:11 và là một phần trong sứ điệp dài mà Giê-rê-mi rao giảng tại cửa đền thờ, quở trách dân sự về những tội giống như Chúa Giê-xu đã thấy và đoán phạt trong thời gian Ngài thi hành chức vụ.


Tại sao Chúa Giê-xu gọi đền thờ là “hang trộm cướp”? Bởi vì nơi những kẻ trộm ẩn náu được gọi là hang. Các nhà lãnh đạo giáo hội và một số người dùng đền thờ và Do-thái giáo để che đậy tội lỗi của họ.


Đức Chúa Trời muốn gì trong nhà của Ngài? Đức Chúa Trời muốn có sự cầu nguyện giữa vòng dân sự Ngài (ITi 2:1), vì sự cầu nguyện thật lòng là một dấu chứng cho thấy chúng ta nương dựa nơi Đức Chuá Trời và đức tin chúng ta đặt nơi lời Hằng sống của Ngài. Ngài cũng muốn dân sự được cứu giúp trong nhà Ngài (Mat 21:14). Người có nhu cầu cảm thấy được tôn trọng và tìm được sự nâng đỡ khi có cần.

Phải có quyền năng trong nhà Đức Chúa Trời, quyền năng hành động biến đổi cuộc đời con người. Ngợi khen là một đặc điểm khác của nhà Đức Chúa Trời (Mat 21:15-16). Chúa Giê-xu trích dẫn những lời này trong Thi 8:2


Rủa sả cây vả. (Mat 21:17-22).

Việc Chúa Giê-xu rủa sả cây vả có thể làm chúng ta ngạc nhiên. Cùng một quyền năng đã làm cây khô héo cũng có thể khiến nó sống và sinh nhiều quả. Chắc chắn Chúa Giê-xu không qui tội cho cây vì không sinh trái.

Khi chúng ta xem xét thời gian và địa điểm diễn ra sự kiện này, chúng ta hiểu nó thấu đáo hơn. Chúa Giê-xu tiến gần về thành Giê-ru-sa-lem vào tuần lễ cuối cùng trong chức vụ công khai đối với dân sự của Ngài. Cây vả biểu tượng cho dân tộc Y-sơ- ra-ên (Lu 13:6-9; Gie 8:13; Os 9:10,16). Giống như cây vả này chỉ có lá nhưng không có trái, dân Y-sơ-ra-ên chỉ có hình thức tôn giáo bên ngoài nhưng không có từng trải đức tin kết quả từ nếp sống đạo. Chúa Giê-xu không tức giận cây vả. Trái lại, Ngài dùng cây vả này để dạy dỗ môn đệ Ngài.


Đức Chúa Trời muốn sanh bông trái trong đời sống con cái Ngài. Bông trái là sản phẩm của sự sống. Cây xanh tốt thường thường cho thấy sẽ có trái, nhưng trường hợp này thì không phải. Trong thí dụ cây vả (Lu 13:6-9), người làm vườn dành nhiều thời giờ chăm sóc cây nhưng bây giờ thời gian đã hết. Cây này không đem lại ích lợi và đang choán chỗ.


Qua thí dụ này chúng ta có thể rút ra bài học ích lợi cho cá nhân, trong khi đó ý nghĩa chính yếu dành cho dân Y-sơ-ra-ên. Giờ đoán phạt đã đến. Quan Tòa đã tuyên án phạt, nhưng bản án sẽ không được thực hiện trong vòng 40 năm. Sau đó người La-mã đánh chiếm và phá hủy thành Giê-ru-sa-lem cùng đền thờ và làm cho dân chúng tản lạc.


Chúa Giê-xu dùng sự kiện này để dạy các môn đệ Ngài bài học thực tiễn về đức tin và sự cầu nguyện. Đền thờ phải là “nhà cầu nguyện”, và dân sự phải là một dân tộc tin kính Chúa. Nhưng cả hai điều quan trọng này đều thiếu mất. Cũng vậy, chúng ta nên thức tỉnh về nguy cơ không kết quả.


3. Không làm theo Lời Đức Chúa Trời (Mat 21:23-46)

Cả ba thí dụ này phát sinh do các thầy tế lễ cả và các trưỡng lão đòi hỏi Chúa Giê-xu giải thích bởi thẩm quyền nào Ngài đã dẹp sạch đền thờ. Là những người coi sóc đời sống tâm linh của dân sự, họ có quyền nêu câu hỏi này. Nhưng chúng ta ngạc nhiên vì sự dốt nát của họ. Chúa Giê-xu đã bày tỏ cho họ biết về Ngài trong ba năm thi hành chức vụ, nhưng họ vẫn không thấy sự thật. Họ muốn có bằng chứng nhiều hơn.


Ngài không có ý tránh né vấn đề khi nhắc họ nhớ lại chức vụ của Giăng Báp Tít. Giăng Báp Tít đã dọn đường cho Chúa Giê-xu. Nếu các nhà lãnh đạo chấp nhận chức vụ của Giăng, chắc chắn họ đã nhận Chúa Giê-xu. Thay vào đó, các bậc lãnh đạo tôn giáo đã để cho vua Hê-rốt bắt giam Giăng và giết ông trong ngục. Nếu họ không công nhận thẩm quyền của Giăng, thì họ không thừa nhận thẩm quyền của Chúa Giê-xu Cả Giăng và Chúa Giê-xu đều do Đức Chúa Trời sai đến với họ.


Một nguyên tắc cơ bản trong cuộc sống Cơ-đốc nhân đó là chúng ta không thể học biết chân lý mới mẻ nếu không vâng theo những gì Đức Chúa Trời đã phán dặn chúng ta.“Nếu ai khứng làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời , thì sẽ biết đạo lý Ta có phải là bởi Đức Chúa Trời, hay là Ta nói theo ý Ta” (Gi 7:17).

Các bậc lãnh đạo giáo hội đã chối bỏ lời rao giảng của Giăng Báp-tít, và vì vậy Chúa Giê-xu không thể bày tỏ cho họ chân lý mới được. Cả Chúa Giê-xu và Giăng Báp Tít đều ở dưới quyền hướng dẫn của Đức Chúa Trời.


 Họ chối bỏ Đức Chúa Cha (Mat 21:23-32).

Dĩ nhiên, vườn nho hình bóng về dân Y-sơ- ra-ên Es 5:1-30; Thi 80:8-16). Hai người con trai đại diện cho hai tầng lớp người trong dân tộc ấy: những người theo đạo tự cho mình là công bình, và những người thâu thuế cùng kẻ có tội. Khi Giăng đến rao giảng sứ điệp về sự ăn năn, đám đông có đạo tỏ ra thích thú việc Giăng làm, nhưng họ không chịu ăn năn hạ mình để nhận lãnh Báp-têm (Mat 3:7-12; Gi 1:19-28). Tuy vậy, đám người ngoại đạo vâng theo lời giảng dạy của Giăng ăn năn tội lỗi mình và nhận lãnh Báp-têm.


Các nhà lãnh đạo phạm hai tội: Họ không tin sứ điệp của Giăng Báp-tít và không chịu ăn năn tội lỗi của mình. Dĩ nhiên, họ cảm thấy rằng họ không cần phải ăn năn (Lu 18:9-14). Nhưng khi chứng kiến sự ăn năn đã thay đổi những người thâu thuế và kẻ có tội, chắc chắn họ cũng được thuyết phục rằng sứ điệp của Giăng là đúng và sự cứu rỗi có thật. Các nhà lãnh đạo giáo hội cứ tiếp tục khước từ chứng cứ rõ ràng mà Đức Chúa Trời ban cho họ.

Khi từ chối Giăng thực sự họ đã khướt từ Đức Chúa Cha Đấng sai người đến. Nhưng Đức Chúa Trời đầy lòng nhân từ, thay vì đoán phạt họ, Ngài sai Con Ngài đến. Điều này dẫn đến thí dụ kế tiếp.


Họ chối bỏ Đức Chúa Con (Mat 21:33-46).

Chúng ta vẫn còn ở tại vườn nho. Thí dụ này đặt nền tảng trên Es 5:1-7, và qua đó Chúa Giê-xu nhắc cho người Do-thái nhớ rằng Đức Chúa Trời đã đối xử tốt lành với dân sự. Đức Chúa Trời giải cứu họ ra khỏi Ai-cập và đem họ vào trong xứ đượm sữa và mật. Ngài ban cho họ mọi phước hạnh vật chất lẫn tâm linh và chỉ đòi hỏi họ sanh bông trái để làm vinh danh Ngài. Thỉnh thoảng Đức Chúa Trời sai tôi tớ Ngài (các đấng tiên tri) đến cùng dân sự để thu hái kết quả. Nhưng dân sự bạc đãi tôi tớ của Ngài, thậm chí còn giết họ nữa.


Chủ nhà phải làm gì? Có thể Người đã sai quân lính đến tiêu diệt những người gian ác này. Nhưng thay vào đó người sai con trai của người đến với họ. Dĩ nhiên, điều này ám chỉ đến Chúa Giê-xu Christ, Con Đức Chúa Trời. Ngài là “Người kế tự” (He 1:2). Thay vì chấp nhận và tôn quý con, họ quăng con đó ra ngoài vườn và giết đi. Chúa Giê-xu bị đóng đinh “ở ngoài cửa thành” (He 13:12-13), bị chính dân tộc của Ngài chối từ.


Dân chúng bị cuốn hút vào kịch tính của câu chuyện khi lắng nghe thí dụ và không nhận ra rằng họ đã tự kết tội mình. Chúa Giê-xu trích dẫn lời Thi 118:22-23 để giải thích cho họ hiểu rằng Ngài là Người Con đó và các nhà lãnh đạo giáo hội là những người trồng nho (Mat 21:45). Đám đông đã dẫn lời Thánh Kinh trong Thi 118:26 để tung hô Chúa Giê-xu khi Ngài tiến vào thành Giê-ru-sa- lem, vì vậy lời Kinh Thánh này thật sự sống động trong tâm trí các thầy thông giáo và người Pha-ri-si.


Trong Cựu-ước, người ta thường ám chỉ Đức Chúa Trời như một vầng đá hay tảng đá (Phuc 32:4,18,30-31; Thi 18:2,31,46). Hòn Đá cũng là một danh xưng của Đấng Mê-si-a. Đối với dân Y-sơ-ra-ên, Chúa Giê-xu là Hòn Đá vướng mắc (Es 8: 14-15; Rô 9:32-33; ICôr 1:23). Dân Y-sơ-ra-ên khước từ Đấng Mê-si-a, nhưng bởi sự chết và sống lại của Ngài, Ngài đã thành lập Hội thánh.

Đối với Hội thánh, Chúa Giê-xu là Hòn Đá góc nhà (Eph 2:20-22; IPhi 2:4-5). Vào ngày cuối cùng, Chúa Giê-xu sẽ đến như một Hòn đá (Da 2:34) đập và phá hủy các nước ngoại bang, sau đó thiết lập nước vinh hiển của Ngài.


Hẳn nhiên, bậc cầm quyền Do-thái biết lời Kinh Thánh Chúa Giê-xu trích dẫn hàm ý nói về Đấng Mê-si-a. Họ là thợ xây đã loại bỏ hòn đá (Công 4:11). Kết quả ra sao? Trước tiên Nước Đức Chúa Trời sẽ cất khỏi dân tộc Y-sơ-ra-ên và cho một dân khác, đó là Hội thánh IPhi 2:9, và hãy lưu ý nội dung các câu 6-10). Những ai chống lại Đá này sẽ bị “giập nát” những người mà Đấng Christ đoán phạt sẽ bị tan tành như bụi.


4. Họ chối bỏ Đức Thánh Linh (Mat 22:1-14)

Chúng ta không nên nhầm lẫn thí dụ này với thí dụ về bữa tiệc lớn (Lu 14:16-24) cho dù chúng có những yếu tố chung. Một lần nữa chúng ta gặp Người Cha và Người Con. Người Con còn sống (cho dù bọn trồng nho đã làm điều gì) và có thêm cô dâu. Lời gợi ý nói về Đức Chúa Giê-xu và Hội thánh Ngài được miêu tả trong Eph 5:22-33. Giai đoạn được mô tả trong thí dụ này phải xảy ra sau khi Chúa sống lại, thăng thiên về trời và lúc Đức Thánh Linh giáng lâm.


Đức Chúa Cha vẫn đang mời gọi dân tộc Y-sơ-ra-ên đến dự tiệc, mặc dầu họ đã giết Con Ngài. Khi nghiên cứu bảy chương sách đầu tiên của sách Công-vụ, chúng ta khám phá ra rằng Phúc-Âm chỉ giảng ra cho người Giu-đa chớ không cho ai khác (Công 2:5,10,14,22,3; Công 3:25; Công 6:7). Chương trình của Đức Chúa Trời “trước tiên cho người Giu-đa” (Rô 1:16; Công 3:26).

Các bậc cầm quyền đất nước phản ứng như thế nào về công vệc của Đức Thánh Linh hành động qua các sứ đồ? Họ chối bỏ Lời Đức Chúa Trời và kết án Hội thánh. Bậc cầm quyền Do-thái đồng ý Hê- rốt giết Giăng Báp Tít, đòi đóng đinh Chúa Giê-xu trên thập tự giá, và cũng chính họ đã ném đá Ê-tiên cho đến chết! Hơn nữa Hê-rốt đã giết Gia-cơ (Công 12:1).


Trong thí dụ này Nhà Vua đã phản ứng ra sao đối với cách dân chúng đối xử các tôi tớ Ngài? Ngài nổi giận và sai quân lính đến tiêu diệt chúng và đốt phá thành của họ. Rồi Ngài quay sang các dân khác và mời họ đến dự tiệc. Đây là bức tranh Đức Chúa Trời đối đãi dân Y-sơ-ra-ên. Họ chối bỏ Đức Chúa Cha khi không chịu vâng theo lời rao giảng của Giăng Báp-tít. Dân Y-sơ-ra-ên chối bỏ Đức Chúa Con khi bắt và đóng đinh Ngài.

Bởi lòng thương xót và nhân từ của Ngài, Đức Chúa Trời sai các sứ giả khác. Đức Thánh Linh giáng trên các tín hữu đầu tiên và họ nhận lãnh quyền năng làm chứng rằng Chúa Giê-xu là Đấng sống và Ngài có thể cứu vớt dân tộc Y-sơ-ra-ên (Công 2:32-36; Công 3:19-26). Các phép lạ do các tín hữu đầu tiên thực hiện là bằng chứng Đức Chúa Trời đang hành động trong họ và qua họ.


Nhưng dân Y-sơ-ra-ên cũng chối bỏ cả Đức Thánh Linh! Đây là lời Ê-tiên lên án dân sự: “Các ngươi cứ nghịch với Đức Thánh Linh hoài” (Công 7:51). Do việc dân chúng ném đá Ê-tiên, Đức Chúa Trời không còn nhịn nhục đối với dân Y-sơ-ra-ên nữa mặc dầu Ngài hoãn cơn đoán phạt gần 40 năm. Trong Công 8:1-40 chúng ta thấy Phúc-Âm được rao giảng trong xứ Sa-ma-ri, và trong Công 10:1-48, Phúc-Âm được đem đến cho dân ngoại..


Theo tôi, sự chối bỏ cuối cùng là “tội nói phạm đến Đức Thánh Linh” mà Chúa Giê-xu đã phán trong Mat 12:22-32. Đây là tội lỗi của một dân tộc, dân Y-sơ- ra-ên đã phạm tội này. Khi chối bỏ Giăng Báp-tít, họ chối bỏ Đấng sai người đến nhưng còn có chức vụ của Đức Chúa Con. Khi chối bỏ Con Đức Chúa Trời, họ được tha thứ vì sự không biết của mình (Lu 23:34; Công 3:17). Ngày nay không thể tha thứ cho bất cứ tội nhân nào chối bỏ Đấng Christ, vì sự chối bỏ này dẫn đến kết án linh hồn (Gi 3:16-22).


Nhưng vẫn còn công việc của Đức Thánh Linh. Thánh Linh ngự giữa Hội thánh trong ngày lễ Ngũ Tuần, và các sứ đồ đã làm nhiều dấu kỳ phép lạ (Công 2:43; He 2:1-4). Các nhà lãnh đạo chối bỏ lời chứng của Đức Thánh Linh, và điều này dẫn đến sự phán xét sau cùng. Họ đã chối bỏ Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Thánh Linh, vậy thì không còn có cơ hội nào khác.


Ngày nay người ta không phạm “tội chống nghịch Đức Thánh Linh” giống như cách dân Y-sơ-ra-ên đã phạm, bởi vì hoàn cảnh khác nhau. Thánh Linh của Đức Chúa Trời đang làm chứng qua thân vị và công việc của Chúa Giê-xu. Chính Đức Thánh Linh cáo trách thế gian về tội lỗi của họ (Gi 16:7-11). Những kẻ vô tín có thể chống lại Đức Thánh Linh (Công 7:51), nhưng không ai biết được giờ khủng hoảng khi Đức Thánh Linh không còn quan tâm đến tội nhân hư mất.


Các câu Mat 22:11-14 có vẻ giống như phần phụ thêm cho thí dụ, nhưng những câu Kinh Thánh này cực kỳ quan trọng. Áo dự tiệc cưới do chủ tiệc cung cấp để mọi người đều được trang phục lịch sự và người nghèo không cảm thấy xấu hổ. Sự cứu rỗi dành cho từng cá nhân cách riêng tư. Chúng ta phải chấp nhận những điều Đức Chúa Trời ban cho chúng ta - sự công bình của Đấng Christ - và không cố tìm đường riêng cho mình. Vì các thí dụ này đều nhấn mạnh đến một dân tộc, cho nên sự nhấn mạnh đến cá nhân ở phần cuối cùng là rất quan trọng.


Các bậc cầm quyền đã mắc phải chứng bệnh mù lòa thuộc linh, sống cuộc đời đạo đức giả, và cố tình không vâng theo lời Đức Chúa Trời. Thay vì lắng nghe lời cáo trách của Chúa Giê-xu và ăn năn, họ quyết định công kích và cãi lẽ với Ngài. Kết quả của họ là sự phán xét. Chúng ta nên cẩn thận đừng theo gương bất tuân của họ.



 


18. SỰ CHỐNG ĐỠ CỦA NHÀ VUA (Mat 22:15-46)


Vào ngày thứ ba trong tuần lễ Vượt qua, kẻ thù tìm cách nêu ra nhiều câu hỏi “ẩn ý” để gài bẫy Ngài. Những người này vẫn còn căm tức vì cách Ngài đánh giá họ qua hàng loạt thí dụ. Ngài phơi bày ý đồ xấu xa của họ và cảnh cáo rằng họ đang tìm cho mình sự xét đoán. Các nhà lãnh đạo giáo hội không thích bị làm nhục trước đám đông. Họ dốc quyết tâm hãm hại Chúa Giê-xu, mong sụp bẫy Ngài trong lời nói để có lý do bắt Ngài.


Nhưng có một lý do khác đối với các câu hỏi này, một lý do mà kẻ thù Ngài không nhận ra. Chúa Giê-xu sắp chịu chết như Chiên Con của Đức Chúa Trời, và việc kiểm tra con chiên kỹ lưỡng trước ngày lễ Vượt Qua là điều cần thiết (Xu 12: 3-6). Nếu phát hiện bất kỳ tì vít gì trên mình con chiên, ngừơi ta không thể dâng nó làm của tế lễ. Chúa Giê-xu đã được kẻ thù của Ngài công khai tra xét, và họ không tìm thấy nơi Ngài có sai sót nào.


Dĩ nhiên, cuộc trao đổi giữa Chúa Giê-xu và các nhà lãnh đạo tôn giáo cũng là cơ hội cho họ tin nhận Chúa và được cứu rỗi. Thực ra, có một thầy thông giáo đã đến rất gần với Nước Đức Chúa Trời (Mac 12:32-34). Thậm chí trong giây phút cuối cùng, vẫn còn hy vọng cho tội nhân hư mất, nếu người đó chấp nhận lẽ thật, ăn năn tội và tin nhận Chúa Giê-xu Christ.


Có bốn câu hỏi được nêu ra trong cuộc đối chất công khai này, trong đó kẻ thù nêu lên ba câu hỏi và câu còn lại do Chúa Giê-xu Christ.


1. Câu hỏi có tính chất chính trị về việc nộp thuế (Mat 22:15-22)

Người Pha-ri-si và phe đảng Hê-rốt thù địch nhau nhưng vì có chung kẻ thù nên họ liên minh với nhau. Người Pha-ri-si chống việc thâu thuế do đế quốc La-mã quy định vì:

(1) Họ không muốn phục tùng quyền lực ngoại bang

(2) Hoàng đế được tôn trọng như vị thần và

(3) Họ có mục đích sử dụng tiền tốt hơn là giao nó cho người La-mã. Vì ủng hộ vua Hê-rốt nên những người thuộc đảng Hê-rốt tán thành việc nộp thuế. Cuối cùng, Hê-rốt được Hoàng đế Sê-sa ban cho quyền hành không có sự giúp sức của đế quốc La-mã, Hê-rốt chắc chắn sẽ khốn đốn trong việc cai trị.


Pa-les-ti-ne là nước thuộc địa, và người Do-thái không mặn nồng gì với quân xâm lược. Mỗi loại thuế dân nghèo phải nộp là điều nhắc họ nhớ xứ sở họ đang bị nước ngoài cai trị. Đảng Xê-Lốt, một tổ chức của những người Giu-đa quá khích “hoạt động ngầm” thường tổ chức chống đối đế quốc La-mã. Họ chống lại mọi loại thuế do nhà cầm quyền La-mã đặt ra.


Dễ dàng thấy tại sao người Pha-ri-si và đảng Hê-rốt chọn việc nộp thuế làm miếng mồi nhử Chúa vào bẫy . Rõ ràng dù Chúa Giê-xu đứng ở phía nào, Ngài cũng tạo ra khó khăn cho chính Ngài và chức vụ của Ngài. Nếu không đồng ý nộp thuế, Ngài sẽ mắc lỗi với chính quyền La-mã. Nếu ưng thuận nộp thuế, Ngài sẽ bị rắc rối với người Giu-đa.


Chúa Giê-xu thấy ngay âm mưu của họ. Ngài biết mục đích thật sự của họ không nhằm tìm câu trả lời, nhưng tìm phương hãm hại Ngài. Họ chỉ đóng vai là người quan tâm đến việc nộp thuế, và điều này làm họ trở thành bọn đạo đức giả. Chỉ căn cứ vào một yếu tố này không thôi, Ngài có thể từ chối không trả lời cho họ. Nhưng Ngài biết mọi người chung quanh sẽ không hiểu. Đây là dịp tiện để Ngài làm cho kẻ thù Ngài phải ngậm miệng, đồng thời dạy cho dân chúng một bài học thuộc linh quan trọng.


Mỗi nhà cai trị đều đúc đồng tiền và cho in ảnh của mình lên đồng bạc đó. Đồng “xu” (đơ-ni-ê) có mang hình của Sê-sa, vì vậy đồng bạc ấy thuộc về Sê-sa. Chúa Giê-xu đáp, “Hãy trả cho Sê-sa những gì thuộc về Sê-sa, và trả cho Đức Chúa Trời những gì thuộc về Dức Chuá Trời”. Qua câu trả lời tuy đơn giản nhưng sâu sắc này, Chúa Giê-xu dạy một số chân lý quan trọng.


Cơ-đốc nhân phải tôn trọng và vâng theo các bậc cầm quyền. Các phần khác trong Tân-ước cũng dạy dỗ chân lý này (Rô 13:1-14; IPhi 2:13-17; ITi 2:1). Cơ-đốc nhân có quyền công dân cả trên trời (Phi 3:20) lẫn dưới đất. Chúng ta phải kính trọng nhà cầm quyền thuộc về thế gian (hoặc những lãnh đạo do dân bầu lên), tuân theo pháp luật, nộp thuế, và cầu nguyện cho hết thảy các bậc chấp chánh.


Cơ đốc nhân phải tôn kính và vâng lời Đức Chúa Trời. Sê-sa không phải là Đức Chúa Trời. Chính quyền không thể ép buộc tôn giáo (Công 5:29), họ cũng không nên giới hạn sự tự do thờ phượng. Công dân tốt làm rạng danh đất nước mình bởi vì anh ta thờ phượng Đức Chúa Trời.


Con người mang ảnh tượng của Đức Chúa Trời và chịu ơn của Ngài. Hình ảnh của Sê-sa nằm trên đồng bạc nhưng con người mang ảnh tượng của Đức Chúa Trời (Sa 1:26-27). Tội lỗi đã làm hỏng hình ảnh tốt đẹp của Đức Chúa Trời trong con người, nhưng qua Chúa Giê-xu Christ, con người có thể nhận lại ảnh tượng của Đức Chúa Trời (Eph 4:24; Col Eph 3:10).


Mối tương quan giữa tôn giáo và chính quyền có tính cách cá nhân và riêng tư. Con cái Đức Chúa Trời có quyền và bổn phận phục vụ trong chính quyền (hãy nhớ trường hợp của Đa-ni-ên và Giô-sép). Nhưng chính quyền kiểm soát Hội thánh hoặc Hội thánh chi phối chính quyền là điều sai.


2. Câu hỏi về giáo lý sống lại (Mat 22:23-33)

Mặc dầu người Pha-ri-si và phe đảng Hê-rốt đã thua cuộc, nhưng phái Sa-đu-sê tham gia trận chiến và tìm cách công kích Chúa Giê-xu. Hãy nhớ nhóm người này chỉ thừa nhận ngũ kinh Môi-se. Người Sa-đu-sê không tin vào thế giới thần linh hoặc giáo lý sống lại (Công 23:8). Họ thường thách thức người Pha-ri-si chứng minh giáo lý sống lại qua ngũ kinh Môi-se, nhưng người Pha-ri-si không làm đựơc.


Điều minh họa giả dối của Phái Sa-đu-sê dựa trên luật pháp Do-thái về “hôn nhân làm lưu danh người chết không con” chép trong Phuc 25:5-10. (Chữ levirate xuất xứ từ chữ levir trong tiếng La-tinh có nghĩa “người anh em chồng”. Điều đó không có liên quan gì đến chi phái Lê-vi).

Mục đích của phong tục này là để lưu danh người chết không có con cái nối dõi. Trong một đất nước như Y-sơ-ra-ên, việc thừa kế gia đình là điều chính yếu, mỗi gia đình phải có người nam nối dõi thật là quan trọng. Mọi người sẽ đánh giá là một kẻ xấu xa khi người đó không chịu giúp xây dựng gia đình cho người anh em đã chết.


Người Sa-đu-sê dùng sự kiện không có người nữ nào có thể có bảy chồng trong cuộc sống đời sau để làm cớ biện hộ cho điều họ không tin vào sự sống lại. Giống như nhiều người ngày hôm nay, họ hình dung cuộc sống đời sau là sự kéo dài của cuộc sống hiện tại - có chăng chỉ là tốt hơn.


Nhưng Chúa Giê-xu phán với họ rằng họ dốt nát.

Họ không biết Kinh Thánh, cũng không biết quyền phép của Đức Chúa Trời, suy ra họ thực sự không biết Đức Chúa Trời. Trong cuộc sống đời sau không có nhu cầu lập gia đình bởi vì không còn có sự chết nữa. Do đó không cần phải sinh sản con cái để thay thế những người chết.


Chúa Giê-xu không phán rằng chúng ta sẽ là những thiên sứ khi được vinh hiển trong thiên đàng. Ngài dạy chúng ta sẽ “như các thiên sứ sáng láng”, lúc ấy chúng ta sẽ không có giới tính và không cưới vợ hoặc lấy chồng. Những câu chuyện phiếm chúng ta nghe và những phim hoạt hình chúng ta xem về người chết trở thành thánh thần hoàn toàn sai với Thánh Kinh.


Chúa chúng ta không vui khi bác bỏ quan điểm ngu dại của người Sa-đu-sê về cuộc sống trong tương lai. Ngài cũng muốn trả lời dều họ tuyên bố không có sự sống lại và Ngài chứng minh điều đó qua ngũ kinh Môi-se! Ngài biết rằng họ chỉ chấp nhận các sách do Môi-se viết ra.

Ngài nhắc họ nhớ lại lời Đức Chúa Trời phán với Môi-se chép trong Xu 3:6, “Ta là Đức Chúa Trời của Áp-ra- ham, Đức Chúa Trời của Y-sác, Đức Chúa Trời của Gia-cốp.” Ngài không phán, “Ta đã là Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham...” vì đều đó có nghĩa Áp-ra-ham không còn nữa. Do lời phán “Ta là”, cho thấy rõ ba nhân vật đức tin này vào lúc ấy vẫn còn sống. Và bởi sự lặp lại nhiều lần “Đức Chúa Trời của”, Chúa muốn phán rằng Ngài biết và yêu thương họ một cá nhân và riêng tư.


Suy đoán về tương lai là điều nguy hiểm.

Chúng ta nên yên nghỉ nơi thẩm quyền của Lời Đức Chúa Trời, vì chỉ trong Kinh Thánh chúng ta mới có câu giải đáp cho các thắc mắc của con người về tương lai. Thánh Kinh không nói cho chúng ta biết mọi việc trong cuộc sống tương lai, nhưng Lời Đức Chúa Trời khích lệ và soi sáng cho chúng ta. Chúa Giê-xu trả lời cho những người Sa-đu-sê ngu dại và dốt nát đầy đủ đến nỗi họ phải “cứng họng” (chữ nín thinh trong Mat 22:34). Ngay cả đám đông cũng lấy làm lạ và ngạc nhiên về sự dạy dỗ của Ngài.


3. Câu hỏi về luân thường đạo lý (Mat 22:34-40)

Có lẽ phe Pha-ri-si thích thú khi thấy đối thủ của họ, người Sa-đu-sê, bối rối. Một thầy dạy luật trong bọn họ biết Chúa Giê-xu đối đáp lưu loát (Mac 12:28) bèn nêu câu hỏi của mình: “Thưa Thầy, trong Luật pháp, điều răn nào là lớn hơn hết?“ (Mat 22:36). Chúng ta có đủ lý do để tin rằng người này đặt câu hỏi với lòng thành thật và thái độ khiêm nhường.


Đây không phải là câu hỏi mới, vì các thầy dạy luật đã bàn luận nó trong nhiều thế kỷ. Họ có tài liệu chứng minh cho 613 mệnh lệnh, gồm có 248 điều phải làm và 365 điều phải tránh. Chẳng ai có hy vọng thực hiện trọn vẹn tất cả mệnh lệnh này. Vì vậy, để dễ thực hiện, các chuyên gia luật pháp đã chia các mệnh lệnh ra làm hai phần “nghiêm khắc” (quan trọng) và “dễ dãi” (không quan trọng). Một người có thể chuyên làm “những mệnh lệnh nghiêm khắc” và không bận tâm đến những điều tầm thường.


Giải pháp này cho thấy rõ sự ngụy biện: Bạn chỉ cần phạm một điều luật, dù nghiêm khắc hay dễ dãi, cũng đã đắc tội trước mặt Đức Chúa Trời. “Vì người nào giữ trọn luật pháp, mà phạm một điều răn, thì cũng đáng tội như đã phạm hết thảy.” (Gia 2:10).


Chúa Giê-xu trích dẫn chữ “Shema” (Xu 6:4), lời tuyên xưng đức tin nhắc lại mỗi ngày trên môi miệng mọi người Do-thái chính thống. (Chữ “Shema” xuất xứ từ tiếng Hê-bơ-rơ có nghĩa “nghe thấy”. Lời xưng nhận đức tin bắt đầu bằng, “Hỡi Y-sơ-ra-ên, Hãy nghe!”).

Điều răn lớn nhất là phải yêu mến Chúa Trời với tất cả những gì chúng ta có - tấm lòng, linh hồn, tâm trí, sức lực, của cải, sự phục vụ. Yêu mến Đức Chúa Trời không phải “có thiện cảm với Ngài”, vì tình yêu thật bao gồm cả ý chí lẫn con tim. Nơi đâu có tình yêu, nơi đó sẽ có tâm tình phục vụ và vâng lời.


Nhưng chúng ta không thể tách rời lòng yêu mến Đức Chúa Trời ra khỏi tình yêu thương tha nhân vì vậy Chúa Giê-xu cũng trích dẫn Le 19:18 và liệt nó ngang bằng với kinh Shema. Tất cả Luật Pháp và Lời Tiên tri đều dựa trên nền tảng của hai điều răn này. Chúng ta có thể ghi nhận thêm rằng lời giảng dạy trong các thơ tín Tân-ước hiệp với lời tuyên bố này. Nếu một người thật sự yêu mến Đức Chúa Trời, người đó cũng phải yêu mến anh em và người lân cận mình (IGi 3:10-18; IGi 4:7-21).


Nếu có mối tương giao đúng đắn với Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ không phạm điều răn của Ngài. Tình yêu là nền tảng cho sự vâng lời. Thật ra, tất cả mệnh lệnh và điều răn đều tóm tắt trong sự yêu thương (Ro 13:8-10). Nếu chúng ta yêu mến Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ yêu tha nhân và nếu yêu người lân cận, chúng ta sẽ không muốn làm điều gì có hại đến họ.


Nhưng Chúa Giê-xu muốn đem đến ý nghĩa sâu xa hơn khi truyền đạt câu trả lời lạ lùng này. Dân Do-thái sợ việc thờ lạy thần tượng. Khi Chúa Giê-xu tuyên bố Ngài là Đức Chúa Trời, họ phản đối vì không thể tin việc thờ lạy một vật thọ tạo là đúng. Chúa Giê-xu công nhận sự thờ phượng và không trách phạt những ai tôn kính Ngài.

Điều này có phải thờ thần tượng không? Không, vì Ngài là Đức Chúa Trời! Nhưng nếu Luật Pháp đòi hỏi chúng ta yêu mến Đức Chúa Trời và người lân cận, thì người Do-thái yêu mến Chúa Giê-xu không có gì sai cả. Nhưng thay vào đó họ lập mưu giết Ngài. Một ngày nọ, Ngày đã phán với họ, “Nếu Đức Chúa Trời là Cha các ngươi, thì các ngươi sẽ yêu mến Ta...” (Gi 8:42). Họ chấp nhận quyền của Luật Pháp, tuy nhiên đời sống họ không vâng theo lời dạy của Luật Pháp.


Thầy thông giáo người đã nêu câu hỏi về nguồn gốc của điều răn dường như là người khiêm nhường và thành thật. Không phải tất cả người Pha-ri-si đều là đạo đức giả. Ông ta công khai đồng ý với Chúa Giê-xu (Mac 12:32-33). Điều này chắc chắn làm cho bạn hữu trong giới Pha-ri-si của ông ta một phen hoảng sợ. Chúa Giê-xu biết rõ người đàn ông này có lòng thành thật, và Ngài khen ngợi trí khôn ngoan và tính khiêm nhường của ông ta. Vậy ông ta có đi trọn con đường để vào Nước Trời khi tiến đến gần tới đích? Chúng ta tin rằng đúng như vậy.


Chúa Giê-xu đã trả lời ba câu hỏi khó. Ngài giải quyết mối quan hệ giữa tôn giáo và bậc cầm quyền, giữa cuộc sống đời này và đời sau, giữa Đức Chúa Trời và người lân cận. Đây là những mối quan hệ thiết yếu, và chúng ta không thể làm ngơ trước lời dạy dỗ của Chúa. Nhưng có một câu hỏi quan trọng hơn những câu hỏi nêu trên mà Chúa Giê-xu đã chất vấn kẻ nghịch lại Ngài.


4. Câu hỏi cá nhân về Đấng Mê-si-a (Mat 22:41-46)

Chúa Giê-xu không diễn đạt câu hỏi này giống như Ngài đã hỏi các môn đệ, “Còn các ngươi thì xưng Ta là ai?” (Mat 16:15). Đã từng biện luận với Ngài nên những người này không đồng tình với mục đích của Ngài, họ cũng không thành thật trong việc thẩm định đúng về Ngài. Chúa Giê-xu phải gợi ý gián tiếp với kẻ chống đối Ngài. Ngài đưa ra vấn đề như một câu hỏi về thần học, trong khi đó lại là câu quan trọng nhất cho mỗi cá nhân mà họ chưa bao giờ đối diện.


Ngài hỏi họ, “Về Đấng Christ, các ngươi nghĩ thế nào?”. Là những học giả uyên bác về Luật pháp, họ biết câu trả lơi: “Ngài là Con Vua Đa-vít.” Nếu được hỏi, có thể họ đã liên hệ đến nhiều chương đoạn trong Kinh Thánh Cựu-ước bao gồm IISa 7:12-13; Thi 78:68-72; Mi 5:2.

Một khi họ đã trả lời câu hỏi của Ngài, Chúa Giê-xu nêu tiếp câu hỏi thứ hai, câu hỏi này được trích trong Thi 110:1 - “Chúa (Đức Giê-hô-va) phán cùng Chúa tôi rằng: 'Hãy ngồi bên hữu Ta, cho đến khi nào Ta để kẻ thù nghịch ngươi dưới chân ngươi'”.


Mọi học giả Do-thái chính thống đều giải nghĩa câu Kinh Thánh này nhằm vào Đấng Mê-si-a. Chỉ có Đấng Mê-si-a mới có thể ngồi bên hữu Giê-hô-va Đức Chúa Trời. Chúa Giê-xu tin vào thần cảm và sự chính xác của Lời Kinh Thánh Cựu-ước, vì Ngài phán rằng Vua Đa-vít nói những lời này “theo sự cảm động của Chúa Thánh Linh” (Mat 22:43). Không ai dám nghi ngờ về sự chính xác và uy quyền của nội dung câu Kinh Thánh trên.


Chúa Giê-xu hỏi, ”Nếu Đấng Mê-si-a là Con Vua Đa-vít, thì làm thế nào Đấng Mê-si-a lại có thể làm Chúa của Vua Đa-vít được?”. Chỉ có một cách giải đáp cho câu hỏi này. Là Đức Chúa Trời, Đấng Mê-si-a là Chúa của Vua Đa-vít là con người, Ngài là Con của Vua ấy. Ngài là “chồi và hậu tự của Đa-vít” (Kh 22:16).

Thi 110:1 dạy chúng ta biết về thần tánh và nhân tánh của Đức Chúa Giê-xu. Ngài là Chúa của Vua Đa-vít đồng thời cũng là Con vua ấy.


Trong thời gian thi hành chức vụ trên đất, Chúa Giê-xu thường chấp nhận tước hiệu “Con Vua Đa-vít” (Mat 9:27; Mat 12:23; Mat 15:22; Mat 20:30-31; Mat 21:9,15). Các nhà lãnh đạo đã nghe đám đông tung hô Ngài là “Con Vua Đa-vít” khi Ngài cỡi lừa vào thành Giê-ru-sa-lem. Việc Ngài công nhận tước hiệu này là bằng chứng Chúa Giê-xu biết chính Ngài là Đấng Mê-si-a, Con Đức Chúa Trời. Là Đức Chúa Trời, Chúa Giê-xu là Chúa của Vua Đa-vít nhưng là người, Ngài là Con vua ấy, vì Ngài sinh ra trong dòng dõi Đa-vít (Mat 1:1,20).


Trong thời ấy các học giả không phân biệt rõ ràng về Đấng Mê-si-a. Họ thấy hai hình ảnh về Đấng mê-si-a trong Cựu-ước và họ không thể nào dung hòa được hai hình ảnh ấy. Một hình ảnh nói đến sự đau khổ của người đầy tớ, một hình ảnh khác nói đến một quân vương đắc thắng và đang trị vì. Có hai Đấng Mê-si-a sao? Làm thế nào tôi tớ của Đức Chúa Trời lại chịu đau đớn và bị chết được? (IPhi 1:10-12).


Nếu chịu lắng nghe lời Chúa Giê-xu phán dạy, ắt họ đã biết chỉ có một Đấng Mê-si-a, và chính Ngài có hai bản thể thần tính và nhân tính. Vì cớ gánh thay tội lỗi Ngài chịu khổ và chết như một con sinh tế. Rồi Ngài đắc thắng sự chết và sống lại, và một ngày kia Ngài sẽ trở lại để chiến thắng kẻ thù nghịch Ngài. Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo giáo hội có suy nghĩ riêng của mình, họ không muốn thay đổi quan điểm. Nếu nghe theo lời giảng dạy của Ngài, chắc chắn họ nhìn nhận Ngài là Đấng Christ và đây là điều họ không sẵn lòng.


Kết quả là kẻ thù nghịch Ngài phải lặng thinh trong cuộc đối thoại ngày hôm ấy. Họ không dám hỏi Ngài điều gì nữa, không phải vì họ đã tin vào lẽ thật, nhưng vì họ sợ phải đối diện với lẽ thật. “Họ không dám hỏi Ngài câu nào nữa” (Lu 20:40). Nhưng họ cũng không có can đảm đối diện với chân lý để có hành động phù hợp.


Nhìn nhận Chúa Giê-xu Christ là vấn đề sinh tử. Chứng cớ đã rõ ràng cho tất cả mọi người xem xét. Có thể chúng ta cố chấp khi tìm hiểu điều đó để rồi lạc mất chân lý. Hoặc chúng ta thành tâm và khiêm nhường tra xét để rồi khám phá ra chân lý cứu rỗi, chúng ta tin nhận và được cưú. Các bậc lãnh đạo giáo hội bị mù loà nặng nề vì lời truyền thống, địa vị, và tấm lòng ích kỷ kiêu ngạo đến nỗi không thể - và sẽ không - nhìn thấy lẽ thật và tiếp nhận lẽ thật.


Ngày nay chúng ta không dám phạm phải sai lầm tương tự.



 


19. NHÀ VUA CÔNG KÍCH (Mat 23:1-39)


Đây là sứ điệp cuối cùng Chúa rao giảng giữa vòng dân chúng. Đó là lời lên án nặng nề nhắm vào tôn giáo sai lầm được ngụy trang dưới lớp vỏ lẽ thật. Rất có thể có một số thường dân sửng sốt trước lời dạy của Ngài, vì họ xem người Pha-ri- si là những người mô phạm.


Có lẽ chúng ta nên tự nhắc nhở không phải tất cả mọi người Pha-ri-si đều đạo đức giả. Vào thời đó có khoảng 6.000 người Pha-ri-si, có nhiều người là “môn đệ tin theo Chúa Giê-xu” nhưng không thường xuyên nhóm họp. Hầu hết người Pha-ri- si đều là những nhà buôn thuộc giai cấp trung lưu và rất có thể họ đã thành thật trong việc tìm kiếm chân lý và sự thánh sạch.

Danh xưng “Pha-ri-si” xuất xứ từ một thuật ngữ có nghĩa “biệt riêng ra”. Người Pha-ri-si biệt lập với dân ngoại, tránh xa những người Do-thái “ô uế” không làm theo Luật pháp (đó là “hạng thâu thuế và người có tội” (Lu 15:1-2), và bất cứ người nào chống lại truyền thống lâu đời đang chi phối cuộc sống của họ.


Trong vòng phe Pha-ri-si có vài người thật sự tìm kiếm lẽ đạo thuộc linh. Ni- cô-đem (Gi 3:1-36; Gi 7:50-53), Giô-sép người A-ri-ma-thê (Gi 19:38), và một người không nêu tên được ghi lại trong Mac 12:32-34 kín đáo theo Chúa. Ngay cả Ga-ma- li-ên cũng bày tỏ lòng bao dung đối với Hội thánh mới thành lập (Công 5:34). Nhưng hầu hết người Pha-ri-si dùng tôn giáo của họ để tiến thân và thâu góp của cải vật chất. Không có gì đáng ngạc nhiên khi Chúa Giê-xu công kích họ. Hãy lưu ý ba phần trong sứ điệp này.


1. Lời giải thích cho đoàn dân (Mat 23:1-12)

Trong phần này, Chúa Giê-xu giải thích những sai lầm cơ bản trong tôn giáo của người Pha-ri-si.


Họ có khái niệm sai về sự công bình (Mat 23:2-3). Trước hết họ nắm lấy quyền hạn không thuộc về mình. “Các thầy thông giáo và người Pha-ri-si đều ngồi trên ngôi của Môi-se...”, bản dịch theo nghĩa đen.Trong Kinh Thánh không có chỗ nào chép Đức Chúa Trời ban cho nhóm người này bất cứ quyền hạn gì. Quyền hạn duy nhất họ có được là Lời Đức Chúa Trời. Vì vậy, dân chúng vâng theo mọi điều người Pha-ri- si giảng dạy qua Kinh Thánh. Nhưng dân chúng không phải vâng theo các truyền thống tập tục và những luật lệ do con người đặt ra.


Đối với người Pha-ri-si, công bình có nghĩa là tuân theo Luật pháp của Đức Chúa bằng hình thức bên ngoài. Họ làm ngơ tình trạng thật bên trong lòng. Tôn giáo bao gồm việc vâng theo vô số điều luật chi phối mọi chi tiết của cuộc sống, bao gồm cả những gì bạn làm với những gia vị trong tủ thức ăn của bạn (Mat 23:23-24). Người Pha-ri-si cẩn thận trong lời nói lời và theo những nghi lễ chuẩn mực, nhưng trong lòng họ không vâng theo Luật pháp. Đức Chúa Trời muốn sự chân thật nơi bề trong (Thi 51:6). Giảng dạy không đi đôi với thực hành chỉ là công việc giả dối.


Họ có khái niệm sai về chức vụ (Mat 23:4).

Đối với họ, thi hành chức vụ có nghĩa là truyền luật lệ cho dân chúng và buộc thêm gánh nặng trên vai người ta. Nói cách khác, người Pha-ri-si đặt khó khăn trên người khác nhiều hơn trên chính họ. Chúa Giê-xu đến để cất đi gánh nặng của con người (Mat 11:28-30), nhưng tôn giáo theo luật pháp luôn làm cho gánh nặng thêm bi đát hơn. Chúa Giê-xu chẳng hề đòi hỏi chúng ta làm bất cứ điều gì mà Ngài không làm trước. Người Pha-ri-si ra lệnh người khác làm, nhưng họ không tham gia vào. Họ là người chuyên quyền trong tôn giáo, chớ không phải là người dẫn dắt thuộc linh.


Họ có khái niệm sai về sự cao trọng (Mat 23:5-12). Theo họ, thành công là được mọi người nhận biết và kính trọng. Họ không quan tâm đến sự chấp nhận của Đức Chúa Trời. Họ dùng tôn giáo để gây ảnh hưởng, chớ không làm sáng danh Đức Chúa Trời (Mat 5:16). Điều này còn có nghĩa tôn giáo được dùng làm đồ trang sức để phô diễn lòng mộ đạo của họ. “Những hộp kinh của người Do-thái” là những chiếc hộp làm bằng da được người Pha-ri-si đặt các phần Kinh Thánh vào trong đó. Họ đeo các chiếc hộp ấy trên trán hoặc trên tay, theo như lời dạy trong Phuc 6:8 và Phuc 1:18. Họ cũng kéo dài thêm kích thước của “các tua” trên chéo áo của họ (Dan 15:38; Mat 9:20).


Người Pha-ri-si cũng cho rằng địa vị là một dấu chỉ về sự cao trọng, vì vậy họ tìm chỗ ngồi cao nhất trong nhà hội và tại các bữa ăn đông người. Chỗ ngồi không có liên quan gì đến bản thân người ngồi. Albert Einstein viết, ”Đừng cố sức trở thành một người thành đạt, nhưng tốt hơn nên trở thành người có giá trị.”


Họ cũng nghĩ rằng các danh xưng cao quý là dấu hiệu của sự cao trọng. Tước hiệu “Ra-bi” có nghĩa là “người vĩ đại của tôi” và các nhà lãnh đạo giáo hội thèm thuồng danh xưng này. (Ngày nay các bậc lãnh đạo giáo hội thích thú học vị tiến sĩ danh dự). Chúa Giê-xu cấm các môn đệ dùng danh xưng Ra-bi vì tất cả họ đều là anh em, và chỉ một mình Chúa Giê-xu là Thầy của họ mà thôi (“Chủ” trong c.8). Giữa vòng con cái Đức Chúa Trời có sự bình đẳng về mặt thuộc linh, dưới quyền tể trị của Chúa Giê-xu Christ.


Chúa Giê-xu cũng cấm họ dùng danh xưng cha có liên hệ đến phạm vi thuộc linh. Xưng hô với người cha về phần xác bằng tên gọi ấy chắc chắn là điều không sai, nhưng gọi một nhà lãnh đạo thuộc linh là cha là điều sai. Thánh Phao-lô tự ám chỉ là ông là “người cha thuộc linh” vì ông đã dùng Phúc-Âm mà sanh con cái Chúa trong Chúa Giê-xu Christ (ICôr 4:15). Nhưng Phao-lô không yêu cầu họ dùng thuật ngữ này để gọi ông.


Danh xưng thứ ba Chúa Giê-xu cấm sử dụng đó là Chủ (c.10), từ đó mang nghĩa “người hướng dẫn, người giáo huấn, người lãnh đạo.” Từ này không giống với từ được dịch là “Thầy” ở câu 8 trong bản King James. Chữ Thầy đó có nghĩa “người thầy”, trong khi chữ ở đây có nghĩa “người đi trước và hướng dẫn”. Có lẽ từ tương đương trong ngôn ngữ hiện đại là “thẩm quyền”.

Đức Chúa Trời đã đặt để các bậc lãnh đạo trong Hội thánh, nhưng họ không được thay thế Đức Chúa Trời trong đời sống chúng ta. Một người lãnh đạo thuộc linh thật trực tiếp đưa bầy chiên của mình vào tự do và mối tương giao mật thiết với Đấng Christ, chớ không đưa họ vào sự ràng buộc với ý tưởng và tin lý của mình.


Sự cao trọng thật tìm thấy trong khi hầu việc người khác, chớ không buộc người ta phục vụ mình (Gi 3:30; Gi 13:12-17). Con người không tạo ra được sự cao trọng thật nó chỉ đến từ Đức Chúa Trời khi chúng ta vâng lời Ngài. Nếu chúng ta tự tôn mình lên, Đức Chúa Trời sẽ hạ chúng ta xuống. Nhưng nếu chúng ta tự hạ mình xuống, đến lúc thuận tiện Đức Chúa Trời sẽ nhắc chúng ta lên (IPhi 5:6).


2. Quở trách người Pha-ri-si (Mat 23:13-36)

Chúng ta không nên đọc các lời quở trách với ý nghĩ Chúa Giê-xu không kiềm chế nỗi giận dữ. Quả thật Ngài có tức giận tội lỗi của họ, và những tội lỗi họ gây ra cho dân sự. Nhưng thái độ của Ngài là nỗi đau buồn vì tội lỗi của người Pha-ri-si và vì họ đui mù không nhìn thấy lẽ thật của Đức Chúa Trời.


Có lẽ cách tốt nhất khi giải thích tám “lời quở trách” này là phải đối chiếu với tám phước lành chép trong Mat 5:1-12. Trong Bài Giảng Trên Núi Chúa mô tả sự công bình thật trong phân đoạn này Ngài nói đến sự công bình giả.


• Vào Nước thiên đàng - đóng cửa Nước thiên đàng (Mat 23:13; Mat 5:3). Người có lòng khó khăn vào Nước thiên đàng, nhưng kẻ có lòng kiêu ngạo không vào Nước thiên đàng và còn ngăn trở người khác nữa. Động từ trong tiếng Hy-lạp cho thấy con người đang cố công ngăn cấm người khác. Chính bạn không vào Nước Đức Chúa Trời là điều đáng buồn nhưng khi bạn ngăn trở không cho người khác vào đó là điều đáng buồn hơn. Bằng cách dạy những lời truyền khẩu do con người đặt ra thay cho lẽ thật của Đức Chúa Trời, người Pha-ri-si “đã đoạt lấy chìa khóa của sự biết” và đóng cánh cửa đi vào sự cứu rỗi (Lu 11:52).


• Những kẻ than khóc được yên ủi - những kẻ phá hủy bị đoán phạt (Mat 23:14; Mat 5:4). Câu này không có chép trong sách Ma-thi-ơ, nhưng có chép trong Phúc-âm Mac 12:40 và Lu 20:47. Thay vì than khóc vì tội lỗi của mình, và than khóc với các bà góa thiếu thốn, người Pha-ri-si lợi dụng dân chúng để cướp bóc. Họ dùng tôn giáo làm “áo choàng che đậy sự tham muốn” (ITe 2:5).


• Người nhu mì hưởng được đất - kẻ kiêu ngạo linh hồn bị quăng vào trong địa ngục (Mat 23:15; Mat 5:5). Người qui đạo là người cải tâm theo một tôn giáo. Người Pha- ri-si ra đi chinh phục người khác trở lại với hệ thống giáo luật của họ, tuy nhiên họ không thể giới thiệu những người này cho Đức Chúa Trời hằng sống. Thay vì cứu rỗi linh hồn, người Pha-ri-si kết án linh hồn!


“Đứa con của địa ngục” đồng nghĩa với “đứa con của quỷ”, đó là từ Chúa Giê-xu dùng để gọi người Pha-ri-si (Gi 8:44; Mat 12:34; Mat 23:33). “Đứa con của ma quỷ” là người chối bỏ phương cách cứu rỗi của Đức Chúa Trời (sự xưng công bình bởi đức tin nơi Đấng Christ). Con người này chỉ phô trương sự công bình riêng của mình tùy thuộc vào hệ thống tôn giáo. Người trở lại đạo thường thường bày tỏ lòng hăng say hơn hẳn người hướng dẫn mình, và sự “tận tuỵ gấp đôi” này chỉ sinh ra án phạt gấp đôi. Thật là một thảm kịch khi người ta nghĩ rằng mình đang vào thiên đàng trong khi thực sự họ đang tiến dần vào sự hư mất! .


• Đói khát sự công bình - tham lam lợi lộc (Mat 23:16-22; Mat 5:6). “những người chỉ đường mù” là cách mô tả đầy đủ, lời mô tả chắc chắn làm cho người nghe phải bậc cười. Trước đây Chúa Giê-xu đã dùng cách mô tả này (Mat 15:14). Người Pha-ri- si không thấy chân giá trị của sự sống. Họ đã lẫn lộn những ưu tiên trong đời sống của mình. Họ thề thốt và dùng vật thánh để chứng minh cho lời thề đó - chẳng hạn vàng trong đền thờ hoặc của lễ dâng trên bàn thờ. Nhưng họ không chỉ đền thờ hoặc bàn thờ để thề. Chính đền thờ làm cho vàng nên thánh và bàn thờ làm cho của lễ nên thánh. Họ đang để Đức Chúa Trời ra ngoài những ưu tiên trong đời sống.


Chúa Giê-xu biết rằng người Pha-ri-si muốn có cả vàng lẫn của lễ trên bàn thờ. Đây là lý do người Pha-ri-si thực hành luật “Co-ban” - bất kỳ vật gì dâng cho Đức Chúa Trời không thể đem cho người khác (Mac 7:10-13; Mat 15:1-9). Họ không tìm kiếm sự công bình của Đức Chúa Trời chỉ ham lợi lộc vật chất. Họ triển khai một “hệ thống tôn giáo” cho phép họ ăn cắp những điều thuộc về Đức Chúa Trời và người khác mà vẫn giữ được thanh danh.


• Được thương xót - từ chối sự thương xót (Mat 23:23-24; Mat 5:7). Người Pha-ri-si tập trung vào những điều nhỏ nhặt. Họ đặt ra các quy định cho mọi lãnh vực chi li trong cuộc sống, trong khi đó họ quên những điều quan trọng. Thường thường các thầy dạy luật là những người khắc khe đến từng chi tiết nhỏ nhặt, nhưng không nhìn thấy những nguyên tắc lớn lao. Đám đông này không nghĩ gì về việc lên án một người vô tội, tuy vậy họ lại sợ không dám đi vào trường án Phi-lát vì sợ bị ô uế (Gi 18:28).


Không có thắc mắc nào nói lên rằng Kinh Thánh Cựu-ước đã đòi hỏi của dâng phần mười (Le 27:30; Phuc 14:22). Áp-ra-ham đã dâng phần mười từ lâu trước khi có luật lệ này (Sa 14:20), và Gia-cốp theo gương ông nội mình (Sa 28:20-22). Các nguyên tắc dâng hiến Cơ-đốc dưới thời ân điển được chép trong IICôr 8:1-9:15. Chúng ta không chỉ vui lòng dâng một phần mười (10%), nhưng cũng muốn dâng cho Chúa những của dâng vì lòng đầy dẫy tình yêu Chúa.


Công lý, thương xót và thành tín là những phẩm chất quan trọng mà Đức Chúa Trời tìm kiếm. Không thể thay thế bằng việc vâng theo các luật lệ. Lưu tâm đến các chi tiết là điều tốt, nhưng chúng ta đừng bao giờ đánh mất nhận thức về những ưu tiên trong lãnh vực thuộc linh. Chúa Giê-xu không lên án việc dâng phần mười.Nhưng Ngài cáo trách những người để cho sự đắn đo về luật pháp ngăn trở họ không phát triển được đặc tính Cơ đốc nhân thật.


• Lòng trong sạch - lòng dơ dáy (Mat 23:25-28; Mat 5:8). Chúa Giê-xu dùng hai hình ảnh minh họa: bát đĩa, và ngôi cổ mộ. Cả hai hình ảnh nói lên cùng một chân lý: Có thể bên ngoài sạch sẽ nhưng bên trong lại dơ dáy.

Hãy tưởng tượng chúng ta đang sử dụng những bát dĩa bị dơ! Bất cứ món gì bỏ vào trong dĩa hay chén cũng thành ra dơ nhớp. Người Pha-ri-si cẩn thận giữ bề ngoài rất sạch, bởi vì đó là phần con người nhìn thấy và họ muốn mọi người khen ngợi.Nhưng Đức Chúa Trời nhìn thấy trong lòng (ISa 16:7). Khi Đức Chúa Trời nhìn người bề trong, Ngài thấy “sự tham nhũng và quá dộ” (c.25, BDY).


Người Do-thái cẩn thận không đụng đến xác chết hoặc bất cứ vật gì có liên quan đến người chết, vì họ sẽ bị ô uế (Dan 19:11). Họ tô trắng mồ mả để có ai đó khỏi tình cờ đụng phải, đặc biệt điều này được thực hiện tại kỳ lễ Vượt qua. Quả thật là một hình ảnh giả nhân giả nghĩa: tô trắng thật sạch đẹp bên ngoài nhưng bên trong đầy dẫy xương người chết và mọi thứ dơ dáy!


Cứu Chúa chúng ta hứa, “Phước cho kẻ có lòng trong sạch”. “Khá cẩn thận giữ tấm lòng con hơn hết, vì các nguồn sự sống do nơi nó mà ra” (Ch 4:23). Ông D.L.Moody thường nói, “Nếu tôi chăm chút bản tính của mình, tiếng thơm của tôi sẽ tự lan ra”.

Người Pha-ri-si sống để được danh tiếng, chớ không muốn có nhân cách tốt.


Người hòa giải và chịu bắt bớ là con cái Đức Chúa Trời - những kẻ buộc tội người khác là con cái ma quỷ (Mat 23:29-33; Mat 5:9-12). Khi Chúa Giê-xu gọi người Pha-ri-si là “loài rắn...dòng dõi rắn lục”, Ngài đang coi họ giống hệt quỉ Sa-tan là con rắn (Sa 3:1). Trong thí dụ về cỏ lùng, Chúa Giê-xu phán rõ ràng quỷ Sa-tan có một gia đình (Mat 13:38). Sa-tan là là kẻ giết người và nói dối (Gi 8:44), và con cái Sa-tan sống theo gương nó. Người Pha-ri-si là kẻ nói dố (Mat 23:30) và giết người (Mat 23:34).


Đối với Pha-ri-si việc xây dựng, tôn tạo và tô điểm mồ mả các người tử vì đạo là công việc theo tập tục. Nhưng chính “tổ phụ của họ” đã giết các thánh tử đạo! Dĩ nhiên không phải tổ tiên về phần xác của họ, nhưng “tổ tiên về phần thiêng liêng” - những kẻ giả nhân giả nghĩa trong các thời trước.


Trên thế giới luôn có môn đệ giả, bắt đầu là Ca-in (Sa 4:1-15; IGi 3:10-15). Người Pha-ri-si và phe đảng của họ phạm tội đổ huyết công bình vì cớ “tôn giáo”.

Người tử đạo đầu tiên trong Thánh Kinh Cựu-ước là A-bên (Sa 4:1-26), và thánh tử đạo sau cùng được ghi lại trong Cựu-ước là tiên tri Xa-cha-ri (IISu 24:20-22)- Kinh Thánh Hê-bơ-rơ kết thúc bằng sách Sử-ký thứ nhì, chớ không phải sách Ma-la-chi.)


Quá trình lịch sử của tội giết người sẽ đem lại kết quả gì? Đó là cơn đoán phạt khủng khiếp! “Dòng dõi này” (“dòng dõi rắn lục”, Mat 22:33) sẽ gánh chịu cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời khi chén tội ác đã đầy (Mat 22:32; Sa 15:16). Một vài cơn đoán phạt đã xảy ra khi thành Giê-ru-sa-lem bị phá hủy, và các cơn đoán phạt còn lại sẽ được thi hành trong cõi đời đời.


Khi ôn lại các lời Chúa chúng ta quở trách, chúng ta có thể hiểu tại sao người Pha-ri-si là kẻ thù nghịch Ngài. Ngài coi trọng người bề trong họ quan tâm người bề ngoài. Ngài dạy một nếp sống thuộc linh dựa trên các nguyên tắc đạo lý, trong khi đó người Pha-ri-si tập trung vào việc giữ các luật lệ và lễ nghi tôn giáo.

Chúa Giê-xu đánh giá thuộc linh theo bản chất trong khi đó người Pha-ri-si đo lường mức độ thiêng liêng qua các hoạt động tôn giáo và sự tuân giữ các luật lệ mắt thấy. Chúa Giê-xu dạy sống khiêm nhường và hy sinh phục vụ nhưng người Pha-ri-si kiêu ngạo và dùng người khác để hoàn thành mục đích riêng của họ. Đời sống thánh khiết của Chúa Giê-xu lột trần lòng sùng đạo giả tạo và tôn giáo hời hợt của họ. Thay vì ra khỏi chốn tối tăm, người Pha-ri-si tìm cách dập tắt Ánh Sáng và họ đã thất bại.


3. Sự than khóc về Giê-ru-sa-lem (Mat 23:37-39)

Chúa Giê-xu phán những lời đau thương này để bày tỏ lòng thương yêu thành thật của Ngài đối với thành Giê-ru-sa-lem, và Ngài đau xót vì họ đã bỏ qua nhiều cơ hội cứu rỗi. “Giê-ru-sa-lem” ám chỉ toàn thể dân tộc Y-sơ-ra-ên. Các nhà lãnh đạo đất nước đã phạm tội triền miên chối bỏ sứ giả của Đức Chúa Trời, thậm chí họ còn giết một số sứ giả. Nhưng bởi hồng ân của Ngài, Chúa Giê-xu đã đến để nhóm họp dân chúng lại và cứu vớt họ.

“Ta muốn... các ngươi chẳng khứng” là lời tóm tắt thảm kịch của sự chối bỏ lẽ thật sau cùng. Ở đây không có sự đối chất nào về quyền uy của Chúa và trách nhiệm của con người, cả hai đã được nói đến. Đức Chúa Trời không thể áp đặt sự cứu rỗi trên con người Ngài cũng không thể thay đổi hậu quả của lòng cứng cỏi vô tín của họ. “Các ngươi không muốn đến cùng Ta để được sự sống” (Gi 5:40).


Hình ảnh gà mẹ túc con mình lại ấp trong cánh là hình ảnh quen thuộc. Môi-se dùng hình ảnh ấy trong bài giảng tạm biệt (Phuc 32:11), các chỗ khác trong Cựu-ước cũng có nhắc đến hình ảnh này (Ru 2:12; Thi 17:8 Thi 36:7 Thi 91:4). Đó là bức tranh nói về lòng yêu thương, sự quan phòng và sẵn lòng chết thế để bảo vệ kẻ khác. Chúa Giê-xu đã chịu chết vì tội lỗi của thế gian, trong đó có dân tộc Y-sơ-ra-ên nhưng “dân Ngài không chịu nhận lấy” (Gi 1:11).


“Nhà các ngươi” có thể nói đến cả đền thờ lẫn thành phố Giê-ru-sa-lem, cả hai đã bị quân xâm lược phá hủy vào năm 70 sau Chúa. Đền thờ là “Nhà của Ta” Mat 21:13, nhưng bây giờ nó bị hoang phế trống không. Chúa Giê-xu rời bỏ đền thờ và thành phố rồi đi ra lên núi Ô-li-ve (Mat 24:1-3).


Dầu vậy, Chúa Giê-xu để lại cho dân tộc Do-thái một lời hứa: Một ngày kia Ngài sẽ trở lại, dân chúng sẽ thấy Ngài và hô “Đáng ngợi khen cho Đấng nhân danh Chúa mà đến!” Đây là lời trích từ Thi 118:26, lời Thi-thiên nói về Đấng Mê-si-a đó được nhắc lại nhiều lần trong tuần lễ cuối cùng của chức vụ Ngài. Đám đông đã hô to những lời chúc tụng này trong ngày Chúa Nhật lễ Lá (Mat 21:9).


Lời hứa này sẽ được ứng nghiệm khi nào? Đến ngày tận thế lúc Chúa Giê-xu Christ trở lại trần gian để giải phóng dân Y-sơ-ra-ên và đánh bại kẻ thù của họ (Ro 11:25-27; Xa 12:1-14). Việc dân Y-sơ-ra-ên chối bỏ Vua sẽ không ngăn cản kế hoạch cứu rỗi lớn lao của Đức Chúa Trời. Thay vì thiết lập vương quốc vinh hiển của Ngài trên thế gian, Chúa Giê-xu lập Hội thánh Ngài (Mat 16:18; Eph 2:11-22). Khi công tác ấy hoàn tất, Ngài sẽ trở lại và đem Hội thánh Ngài về trời (ITês 4:13-18). Lúc ấy sẽ có giờ đoán phạt trên thế gian (“ngày của Chúa,” “thì giờ bối rối của Gia-cốp”), cuối thời kỳ đoán phạt Ngài sẽ trở lại giải cứu dân Y-sơ-ra-ên.


Chúng ta đọc lời quở trách nặng nề này mà không thể không ngạc nhiên về lòng kiên nhẫn và sự nhân từ của Đức Chúa Trời. Không có quốc gia nào được ban phước như dân Y-sơ-ra-ên, tuy nhiên cũng không có đất nước nào lại phạm tội chống lại lòng nhân từ của Đức Chúa Trời cho bằng dân Y-sơ-ra-ên. Họ là con kênh lưu dẫn phước hạnh của Đức Chúa Trời đến cho thế gian, vì “sự cứu rỗi bởi người Giu-đa” (Gi 4:22). Tuy nhiên họ đã trải qua nhiều đau khổ đắng cay trong thế gian này.


Chúa Giê-xu sinh ra là một người Giu-đa, và Ngài yêu thương dân tộc của Ngài. Là người ngoại bang chúng ta phải cám ơn Đức Chúa Trời vì người Giu-đa, vì họ cho chúng ta lời chứng về một Đức Chúa Trời thật, họ cho chúng ta Kinh Thánh, và Chúa Giê-xu Christ, Đấng Cứu Thế. Giống như Chúa Giê-xu, chúng ta phải yêu thương người Giu-Đa, tìm cách chinh phục họ trở lại cùng Chúa, cầu thay cho hòa bình của Giê-ru-sa-lem, và khích lệ bằng mọi cách chúng ta có thể làm được.



 


20. NHÀ VUA HỒI LAI. PHẦN I (Mat 24:1-44)

(Mat 24:1-4)


Bài giảng trên núi Ô-li-ve phát sinh một số câu hỏi mà các môn đệ đã hỏi Ngài khi Chúa Giê-xu phán với họ rằng một ngày kia đền thờ sẽ bị phá hủy.

-Trước hết, họ muốn biết khi nào sự đó xảy ra. Lời giải đáp này không có ghi trong Phúc-âm Ma-thi-ơ nhưng có chép trong Lu 21:20-24.

-Thứ hai, họ hỏi về dấu chỉ ngày Đấng Christ trở lại trần gian. Câu hỏi này được trả lời trong Mat 24:29-44. Trong câu hỏi chót, họ muốn biết về dấu chỉ ngày tận thế. Chúa Giê-xu trả lời vấn đề này trong Mat 24:4-28.


Chúng ta phải nhớ rằng “bầu không khí” của bài giảng này xoay quanh người Do-thái. Chúa Giê-xu nói về xứ Giu-đê (Mat 24:16), ngày Sa-bát (Mat 24:20), và lời tiên tri trong Đa-ni-ên có liên quan đến dân tộc Do-thái (Mat 24:15). Lẽ thật đầy trọn về phước hạnh Hội Thánh vui hưởng (ITês 4:13-18; ICôr 15:51) chưa được bày tỏ vì đó là sự mầu nhiệm (Eph 3:1-12).


• Mat 24:1-44 cho biết Chúa chúng ta đang bàn luận những sự kiện sẽ xảy ra trên thế gian trong suốt kỳ Đại Nạn. (Mat 24:8, nơi “sự đau đớn khi sinh nở” là biểu tượng của cơn Bách Hại và cũng xem (c.21,29). Sau khi Hội thánh được cất lên khỏi thế gian, sẽ có một thời gian “bình hòa và an ổn” ITês 5:1-4) theo sau đó thời kỳ khổ nạn kinh khiếp. Nhiều học giả Thánh Kinh tin rằng thời kỳ này sẽ kéo dài trong bảy năm (Da 9:24-27). Chính Chúa Giê-xu đã mô tả thời kỳ “đại nạn” này trong bài giảng trên núi Ô-li-ve. Cuối thời kỳ ấy, Chúa Giê-xu sẽ trở lại trần gian, đánh bại kẻ thù của Ngài, và thiết lập vương quốc theo lời hứa.


Chúa Giê-xu giải thích ba giai đoạn khác nhau trong kỳ Đại Nạn.


1. Giai đoạn bắt đầu cơn đại nạn (Mat 24:4-14)

Các sự kiện mô tả trong phần này là “đầu sự tai hại” (Mat 24:8). Hình ảnh của một phụ nữ trong cơn sinh nở là bức tranh của kỳ Đại Nạn (ITês 5:5; Es 13:6-11). Chúng ta hãy xem xét một số biến cố quan trọng xảy ra trong giai đoạn bắt đầu cơn Đại Nạn.


Mạo danh tôn giáo (Mat 24:4-5).

Dân Do-thái thường bị các tiên tri giả và Đấng Christ giả dẫn dắt sai lạc. Người cỡi trên con ngựa bạch chép trong Kh 6:1-12 là Kẻ địch lại Đấng Christ, con người độc tài nắm quyền thế giới sẽ dẫn các dân tộc đi sai lạc. Người bắt đầu sự nghiệp của mình bằng cách kiến tạo hòa bình, ký một giao ước với dân Y-sơ-ra-ên để bảo vệ dân tộc ấy thoát khỏi kẻ thù (Da 9:27). Dân Y-sơ-ra-ên sẽ đón chào người này như là vị cứu tinh vĩ đại (Gi 5: 43).


Chiến tranh (Mat 24:6).

Hãy lưu ý rằng giặc giã là dấu chỉ về ngày cuối cùng. Trên thế giới luôn luôn có chiến tranh xảy ra, và sẽ kéo dài cho đến tận ngày cuối cùng. Chính chiến tranh không báo cho chúng ta biết ngày tận thế và sự trở lại của Chúa chúng ta.


Đói kém (Mat 24:7a).

Chiến tranh và đói kém luôn đi đôi với nhau. Kh 6:6 cho thấy các loại lương thực chính có giá khá đắt, vì một “xu” là lương của một ngày làm công.


Chết chóc (Mat 24:7b-8).

Động đất tạo ra đói kém, và cả hai là nguyên nhân gây ra dịch bệnh cướp đi mạng sống của nhiều người.


Tử vì đạo (Mat 24:9).

Cơ-đốc nhân luôn bị thế gian ghen ghét, nhưng ở đây chúng ta thấy sự bắt bớ và giết hại gia tăng hơn trước. Mọi dân tộc được nhắc đến. Chắc chắn điều này không thực sự xảy ra trong Hội thánh đầu tiên.


Loạn lạc khắp thế giới (Mat 24:10-13).

Những người đã từng tin cậy nhau sẽ phản bội nhau. Điều này cho thấy hôn nhân, gia đình, và các dân tộc sẽ bị xé nát tang thương vì thiếu mất lòng trung thành.


Tội ác sẽ thêm nhiều (Mat 24:12).

Vì thậm chí sự can thiệp mạnh mẽ của luật pháp cũng sẽ không thể nào giữ được hòa bình.


Câu Mat 24:13 không có liên quan gì đến sự cứu rỗi cá nhân trong thời ân điển hiện nay. “Sự cuối cùng” không có nghĩa kết thúc cuộc sống này nó nói đến ngày chung kết đời (Mat 24:14). Các Cơ-đốc nhân còn ở thế gian trong suốt thời kỳ bách hại ấy, bền lòng giữ đức tin, sẽ được cứu khi Chúa trở lại trần gian trong ngày cuối cùng để giải cứu họ.


Tin lành rao giảng ra khắp đất (Mat 24:14).

Kh 7:1-8 dạy rằng Đức Chúa Trời sẽ chọn lựa và đóng ấn 144.000 nhà truyền đạo Do-thái, người sẽ đem Phúc-Âm của Nước thiên đàng rao giảng khắp thế gian. Câu Kinh Thánh không dạy rằng Phúc-Âm của ân điển Đức Chúa Trời phải được lan truyền đến mọi quốc gia ngày nay trước khi Chúa Giê-xu có thể trở lại cất Hội thánh Ngài lên không trung với Ngài. Chính sự tái lâm của Chúa vào cuối thời đại được đề cập đến ở đây.


2. Giữa kỳ Đại Nạn (Mat 24:15-22)

Thời điểm giữa kỳ Đại Nạn là giai đoạn quan trọng nhất, vì lúc ấy có một biến cố sẽ xảy ra đã được tiên tri Đa-ni-ên tiên báo cách đây nhiều thế kỷ (Da 9:24-27). Xin luu ý lời tiên tri này chỉ nói đến người Do-thái và thành Giê-ru-sa-lem (“dân ngươi và... thành thánh ngươi, ” Mat 24:24). Ứng dụng lời tiên tri này vào Hội thánh hoặc bất cứ dân tộc nào hoặc nơi nào là hiểu sai lời Đức Chúa Trời.


Lời tiên tri nói đến bảy mươi tuần lễ và theo tiếng Hê-bơ-rơ chữ “tuần lễ” có nghĩa “tuần năm” hoặc bảy năm. Bảy mươi lần bảy tương đương với 490 năm. Nhưng thời gian 490 năm này bị phân chia thành ba phần:

(1) Trong suốt bảy tuần lễ (49 năm) thành phố Giê-ru-sa-lem sẽ được xây sửa lại và sự thờ phượng được tái lập.

(2) Sau 62 tuần lễ (434 năm) Đấng Mê-si-a sẽ đến thành Giê-ru-sa-lem và chịu chết thay tội lỗi của thế gian.

(3) Hoàng tử sẽ ký thỏa thuận với dân Do-thái một tuần lễ (bảy năm) để bảo vệ họ thoát khỏi kẻ thù.


Vua Si-ru đã ban chiếu chỉ xây dựng lại thành Giê-ru-sa-lem năm 445 TC. (IISu 36:22-23; Exo 1:1-11). Thành phố được xây lại trong thời gian khó khăn. Trong Tác phẩm kinh điển The Coming Prince (tạm dịch Vua sắp đến) (nhà xuất bản Kregel năm 1975), tác giả Robert Anderson chứng minh rằng chính xác có 482 năm tiên tri (mỗi năm gồm có 360 ngày) giữa thời gian ra chiếu chỉ xây dựng thành Giê-ru-sa-lem và ngày Chúa Giê-xu cỡi lừa vào thành Giê-ru-sa-lem như là một Vị Vua.


Nhưng chúng ta phải giải thích tuần lễ còn lại của bảy năm. Tuần lễ ấy thích hợp vào thời gian nào? Hãy chú ý cùng một thành phố được xây dựng cũng sẽ bị phá hủy bởi “dân của vua hầu đến” (Da 9:26), tức là ngừơi La-mã. (“Vua hầu đến” là danh xưng của Kẻ Địch Lại Đấng Christ.) Biến cố này xảy ra vào năm 70 sau Chúa.

Nhưng dân Do-thái sẽ được tự do và thành phố được xây dựng trở lại. Vì một ngày nào đó trong tương lai, vua hầu đến (Kẻ Địch Lại Đấng Christ) sẽ ký giao ước với dân Do-thái trong bảy năm. Đây là thời kỳ thích hợp cho “tuần lễ” bị mất.Người sẽ lập giao ước bảo vệ họ khỏi mọi kẻ thù và cho phép họ xây dựng lại đền thờ. Da 9:27 nói về sự lập lại việc dâng của lễ, và điều này đòi hỏi phải có đền thờ).


Thời kỳ thích hợp cho giai đoạn bảy năm này là sau khi Hội thánh được cất lên. “Thời kỳ khó khăn của Gia-cốp”, là thời Đại Nạn sẽ kéo dài bảy năm. Trong IITes 2:1-12 cho thấy rằng Kẻ Địch Lại Đấng Christ không thể xuất hiện cho đến khi Đấng Ngăn trở nó cần phải cất đi. Đấng Ngăn trở đó là Đức Thánh Linh ngự giữa Hội thánh. Một khi Hội thánh được cất khỏi thế gian, lúc ấy Quỷ Sa- tan có thể tạo ra kiệt tác của nó, Đấng Christ giả.


Người sẽ lập giao-ước trong bảy năm, nhưng sau ba năm rưỡi (“vào giữa tuần lễ”) ngừơi sẽ phá bỏ giao-ước đó. Kế đó chính người sẽ tiến vào đền thờ dân Do-thái và tuyên bố là Đức Chúa Trời (IITes 2:3-4; Kh 13:1-18).


Kẻ Địch Lại Đấng Christ sẽ tự dựng lên một hình tượng sống và đặt vào trong đền thờ, đồng bọn của người (tiên tri giả, Kh 20:10) sẽ khiến toàn thế gian thờ lạy tượng ấy. Quỷ Sa-tan luôn muốn thế gian thờ lạy nó, và người ta sẽ thờ lạy nó vào giữa kỳ Đại Nạn (Mat 4:8-11). Chúa Giê-xu gọi hình tượng này là “sự gớm ghiếc tàn nát” (Mat 24:15; Da 9:27).


Một câu thú vị trong ngoặc đơn được chép ở cuối Mat 24:15 - “ai đọc phải để ý”. Câu nói này cho thấy rằng những điều Chúa Giê-xu phán dặn có ý nghĩa lớn lao cho người đọc Phúc-Âm Ma-thi-ơ trong ngày cuối rốt đời này. Qua việc đọc sách tiên tri Đa-ni-ên và lời phán dạy của Chúa Giê-xu, các Cơ-đốc nhân sẽ hiểu được các biến cố và biết phải làm điều gì. Đây là một bằng chứng khác cho thấy Bài Giảng Trên Núi Ô-li-ve ứng dụng cho con người trong kỳ Đại Nạn.


Các học giả nghiên cứu lời tiên tri đã suy đoán tại sao Kẻ Địch nhân Đấng Christ phá bỏ giao ước với dân Do-thái sau ba năm rưỡi. Người ta cho rằng người Nga xâm lăng Y-sơ-ra-ên, được báo trước trong Exe 38:1-39:29, sẽ xảy ra vào thời điểm ấy. Chắc chắn dân Y-sơ-ra-ên sẽ thanh thản và cư ngụ an ổn vào thời gian ấy, vì được Đấng Christ giả che chở bảo vệ (Exe 38:11).

Vào lúc đó, Đấng Christ giả sẽ cai trị liên minh 10 quốc gia, “Hợp Chủng Quốc Châu Âu” (Kh 17:12-13). Dĩ nhiên, nước Nga sẽ bị đánh bại hoàn toàn, không phải do dân Y-sơ-ra-ên, nhưng bởi Đức Chúa Trời Toàn Năng. Khi Đấng Christ giả thấy rằng kẻ thù vĩ đại của người là nước Nga bị đánh bại, người sẽ nhân cơ hội tiến vào thành Giê-ru-sa- lem, phá bỏ giao-ước và chiếm lấy đền thờ.


Người đọc lời tiên tri này trong ngày cuối cùng sẽ biết phải làm điều gì: Hãy rời khỏi xứ Giu-đê! Những lời dạy dỗ này giống như lời đã chép trong Lu 21:20, nhưng chúng ám chỉ đến một thời điểm khác. Lời dạy dỗ chép trong sách Lu-ca ứng với cuộc vây hãm thành Giê-ru-sa-lem năm 70 SC., và “dấu hiệu” đó là các đội quân đóng trại quanh thành phố. Lời dạy dỗ trong sách Ma-thi-ơ ứng với Cơ-đốc nhân người Do-thái ở giữa kỳ Đại Nạn, và “dấu hiệu” đền thờ bị ô uế bởi hình ảnh kẻ địch lại Đấng Christ. Những người đã nhầm lẫn hai “sự kiện” ấy sau cùng đã tin rằng Chúa Giê-xu Christ đã trở lại vào năm 70 sau Chúa!


Toàn phân đoạn này chỉ nói đến người Do-thái, vì không có người tin Chúa nào lo âu về việc phạm luật ngày Sa-bát. Biến cố này dẫn vào “Cơn Đại Nạn”, vào nửa cuối tuần lễ thứ 70 chép trong sách Đa-ni-ên lúc cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời giáng xuống thế gian. Trong suốt ba năm rưỡi đầu của kỳ Đại Nạn, sự đoán phạt tự nhiên xảy ra: chiến tranh, đói kém, động đất, v.v... Nhưng trong ba năm rưỡi sau đó sẽ là sự đoán phạt siêu nhiên và tàn phá.


Trong suốt thời kỳ này, Đức Chúa Trời sẽ chăm sóc những người Ngài lựa chọn (Mat 24:22), đó là người Giu-Đa và dân ngoại bang đã tin đạo và được đổi mới. “Người được lựa chọn” ở đây không phải ám chỉ đến Hội thánh vì lúc ấy Hội thánh đã được cất lên ít nhất trước thời gian ba năm rưỡi.


3. Giai đọan cuối của Kỳ Đại Nạn (Mat 24:23-44)

Tình trạng của thế gian tồi tệ đến nỗi con người thắc mắc tự hỏi liệu có sự giảm bớt, và điều này tạo cho Đấng Christ giả cơ hội dỗ dành nhiều người. Quỉ Sa-tan có khả năng làm “những việc kỳ giả dối” (IITe 2:9-12 Kh 13:13-14). Việc một lãnh đạo tôn giáo làm các phép lạ không bảo đảm cho chúng ta biết ông ta thuộc về Đức Chúa Trời. Nhiều người Do Thái sẽ bị phỉnh dỗ, vì “người Do thái đòi hỏi dấu hiệu” (ICo 1:22). Chúa Giê-xu làm những dấu lạ thật trong danh của Cha Ngài, nhưng dân Do Thái đã chối bỏ không nhận lấy Ngài (Gi 12:37). Họ chấp nhận dấu kỳ phép lạ của Quỉ Sa-tan.


Câu Mat 24:27 cho thấy rằng Chúa Giê-xu sẽ thình lình trở lại thế gian, giống như chớp nháng. Sự kiện xảy ra trước ngày Ngài trở lại là các nước ngoại bang tập hợp tại Ha-ma-ghê-đôn (Kh 16:13-6 Kh 19:11). Các chim ó bay quanh các xác chết tạo nên bức tranh chết chóc khủng khiếp do hậu quả của trận chiến lớn này (Kh 19:17-19). Những đổi thay trong vũ trụ được nhắc đến trong (Mat 24:29) xảy ra trước ngày tái lâm của Chúa Giê-xu Christ.


Chúng ta không được Kinh Thánh cho biết “điềm Con người sẽ hiện ra ở trên trời” là gì, nhưng lúc ấy con người sống trên thế gian sẽ nhận ra. Khi Chúa Giê-xu đến với Hội Thánh, Ngài sẽ ngự nơi không trung và con cái Ngài sẽ được cất lên gặp Ngài tại không trung (ITe 4:17). Nhưng lần hiện đến của Chúa chúng ta vào cuối kỳ Đại Nạn sẽ là một sự kiện trọng đại, mọi mắt sẽ trông thấy Ngài (Kh 1:7).


Sự kiện này có ý nghĩa đặc biệt cho dân Y-sơ-ra-ên. Chúa Giê-xu sẽ trở lại vào giờ dân Y-sơ-ra-ên sắp bị quân ngoại bang đánh bại (Xa 12:1-14). Ngài sẽ giải cứu dân sự Ngài, họ sẽ trông thấy Ngài và nhận biết Ngài là Đấng Mê-si-a của họ (Xa 12:9-14). Sẽ có sự ăn năn, rửa sạch, và trở lại trong cả đất nước dưới lãnh đạo nhân từ của Đấng Mê-si-a.


Chúng ta không nên lẫn lộn tiếng kèn trong Mat 24:31 với “tiếng kèn của Đức Chúa Trời” được chép trong ITe 4:16. “Những kẻ Ngài chọn” chép trong Mat 24:31 ám chỉ dân cư trên đất, cả Do Thái và ngoại bang, những người đã tin nhận Đấng Christ và được cứu rỗi. Trong Kinh Thánh Cựu Ước, các hoạt động của dân Y-sơ-ra-ên đều được thông báo bằng tiếng kèn (Dan 10:1-36 Gios 2:1). Y-sơ-ra-ên là một dân bị tản lạc trong nhiều thế kỷ. Thiên sứ sẽ dùng tiếng kèn để nhóm họp dân Y-sơ-ra-ên như các thầy tế lễ đã làm trong thời Cựu Ước (Le 23:23-25).


Các học giả nghiên cứu lời tiên tri không đồng ý về tất cả các chi tiết của các sự kiện xảy ra trong tương lai. Nhưng bảng tóm lược dưới đây là sự trình bày theo thứ tự các sự kiện phù hợp mà nhiều học giả tin cậy:


1. Hội thánh được cất lên (ITe 4:13-18 ICo 15:51-58). Điều này có thể xảy ra bất cứ lúc nào.


2. Người đứng đầu của 10 nước Châu Âu ký một hiệp ước 7 năm với dân Y-sơ-ra- ên (Da 9:26-27).


3. Sau ba năm rưỡi, người hủy bỏ hiệp ước ấy (Da 9:27).


4. Người tiến về thành Giê-ru-sa-lem và lập hình tượng người trong đền thờ (IITe 2:3-4 Kh 13:1-18).


5. Kẻ Địch Lại Đấng Christ bắt đầu cai trị thế giới và buộc mọi dân cư trên đất phải thờ lạy và vâng lời người. Lúc ấy Đức Chúa Trời giáng cơn Đại Nạn xuống thế gian (Mat 24:21).

6. Các quốc gia nhóm hiệp tại Ha-ma-ghê-đôn để đánh nhau với Kẻ Địch Lại Đấng Christ và dân Y-sơ-ra-ên, nhưng khi thấy dấu hiệu Đấng Christ trở lại, chúng liên minh chống lại Ngài (Xa 12:1-14 Kh 13:13-14 Kh 19:11).

7. Chúa Giê-xu trở lại trần gian, chiến thắng kẻ thù, được người Do-thái tiếp nhận và Ngài thiết lập vương quốc của Ngài trên đất (Kh 19:11 Xa 12:7-13:1). Ngài sẽ trị vì trên thế gian 1.000 năm (Kh 20:1-5).


Mục đích của lời tiên tri không nhằm để thỏa mãn trí tò mò, nhưng để khích lệ các thánh đồ. Chúa Giê-xu kết thúc bài giảng luận của Ngài bằng ba lời khuyên bảo cụ thể, xoay quanh ba hình ảnh minh họa: cây vả, Nô-ê, và kẻ trộm ban đêm. Câu Mat 24:36 nói rõ không ai biết ngày và giờ Chúa trở lại. Nhưng họ có thể biết được diễn biến của các sự kiện và không đến nỗi kinh ngạc.


 Cây vả (Mat 24:32-35).

Lu 21:29 chép, “Hãy xem cây vả và các cây khác”. Trong Kinh Thánh cây vả thường là hình ảnh dân Y-sơ-ra-ên (Lu 13:6-10; Os 9:10) và các cây khác là hình ảnh các nước trên thế giới. Có thể Chúa chúng ta gợi ý rằng chủ nghĩa dân tộc được gia tăng là một trong những dấu hiệu ngày cuối cùng. Chắc chắn các sự kiện trong tương lai bao trùm trước mắt họ. “Và khi các việc đó khởi xảy đến...” (Lu 21:28a) cho thấy rằng một dấu hiệu không cần phải xảy ra hoàn toàn trước khi nó trở thành quan trọng đối với con cái Đức Chúa Trời.


Cây nứt chồi non chứng tỏ mùa hạ gần tới.

Khởi đầu các dấu hiệu này cho thấy ngày của Chúa đã đến gần. Vào lúc ấy thế hệ còn sống trên thế gian sẽ chứng kiến các sự kiện này xảy ra. Thế hệ chúng ta thấy điềm báo trước của những dấu hiệu này.Chúng ta không tìm kiếm các dấu hiệu như thế chúng ta tìm kiếm Đấng Cứu Chuộc (Phi 3:20). Chúa Giê-xu có thể trở lại đem Hội thánh bất cứ lúc nào.


Thời của Nô-ê (Mat 24:36-42). Điểm nhấn mạnh ở đây là con người không biết ngày nào cơn đoán phạt sẽ xảy ra.Nô-ê và gia đình ở trong tàu là bức tranh bảo vệ kỳ diệu của Đức Chúa Trời dành cho dân Y-sơ-ra-ên trong suốt thời tăm tối của cơn Đại Nạn. (Hê-nóc là hình ảnh Hội Thánh được cất lên trước cơn Đại Nạn – (Sa 5:21-24; Hêb 11:5; ITês 5:1-10; ITês 1:10).


Điều gì đã ngăn trở con người không nghe theo lời rao giảng của Nô-ê? Vì những lợi ích bình thường của cuộc sống - ăn, uống, cưới, gả. Họ đã đánh mất điều tốt nhất vì sống theo lợi nhuận vật chất. Để cho mưu cầu vật chất cuốn hút đến nỗi chúng ta quên ngày Chúa Giê-xu trở lại là điều vô cùng nguy hiểm.


Động từ “được đem đi” trong các Mat 24:39-41 có nghĩa ”được cất khỏi trong cơn đoán phạt”. Đừng áp dụng các câu Kinh Thánh này cho việc Hội thánh được cất lên để con cái Đức Chúa Trời được gặp Ngài tại nơi không trung. Trong suốt cơn Đại Nạn, sự phân rẽ sẽ xảy ra: Một số người sẽ bỏ mạng trong cơn hình phạt (được đem đi khỏi), trong khi những người khác còn lại đi vào nước vinh hiển. Cách dùng từ “đùa đem đi hết thảy” trong Mat 24:39 làm rõ nghĩa cho sự kiện này.


Kẻ trộm ban đêm (Mat 24:42-44).

Chúa Giê-xu dùng Nô-ê để cảnh báo rằng con người sẽ không biết ngày giờ, và Ngài dùng hình ảnh tên trộm để nhắc nhở rằng họ sẽ không biết giờ nào Chúa mình sẽ đến. Sau khi Hội thánh được cất lên, sẽ có thời gian hòa bình và an ổn trên đất (ITês 5:1). Sau đó cơn đoán phạt của Đức Chúa Trời thình lình đổ xuống (IIPhi 3:10).


Người còn sống trên thế gian trong suốt cơn Đại Nạn sẽ có thể giải thích ý nghĩa các sự kiện thông qua Kinh Thánh nhưng họ không thể tính chính xác ngày giờ Đấng Christ trở lại. Thêm vào đó những ngày tai họa sẽ được “Rút ngắn lại... vì con dân Chúa” (Mat 24:22). Điều này có nghĩa số ngày khủng khiếp giảm bớt lại, hoặc có thể số giờ đen tối giảm bớt để con người trên thế gian chịu đau khổ ít hơn (Kh 8:12).


Khi chúng ta kết hợp những lời thôi thúc trong cả ba bức tranh, chúng ta kết luận: “Hãy biết rằng Ngài đã gần rồi! Vì vậy hãy thức canh! Các ngươi hãy sẵn sàng!” Các Cơ-đốc nhân còn sống trong suốt giai đoạn lịch sử ấy chắc chắn sẽ tìm được sự an ủi lớn trong lời hứa của Chúa chép trong Thánh Kinh.


Trong khi lời giải thích của phần này có liên quan đến dân Y-sơ-ra-ên trong suốt cơn Đại Nạn, chúng ta có thể áp dụng lời Hằng sống vào lòng chúng ta. Chúng ta không biết lúc nào Chúa sẽ tái lâm tiếp rước Hội thánh Ngài. Vì vậy, chúng ta phải tỉnh thức, trông đợi và bền lòng. Chúa Giê-xu đã lý giải điều này cách chi tiết trong phần kế tiếp của bài giảng trên núi Ô-li-ve (Mat 24:45-25:30).


Chúng ta nên bày tỏ lòng biết ơn như thế nào khi Đức Chúa Trời không định đoán phạt chúng ta, nhưng ban ơn cứu rỗi cho chúng ta lúc Chúa Giê-xu Christ hiện ra. Ngài đã cứu chúng ta thoát khỏi cơn thạnh nộ hầu đến (IITês 1:10; IITês 5:9-10). Là con cái Đức Chúa Trời, chắc chắn chúng ta sẽ trải qua hoạn nạn (Gi 16:33; Cong 14:22), nhưng không phải trải qua cơn Đại Nạn.



 


21. NHÀ VUA HỒI LAI PHẦN II (Mat 24:45-25:46)


Chúng ta đã lưu ý “bầu không khí” trong phần đầu của Bài Giảng Trên Núi Ô-li-ve rõ ràng thuộc về người Do-thái. Khi đọc cẩn thận phần thứ hai này chúng ta thấy “bầu không khí” đã thay đổi. Chúa Giê-xu đang mô tả các dấu biến cố trong Cơn Đại Nạn, và lần lượt nói rõ từng sự đoán phạt, cuối cùng là sự tái lâm của Ngài. Nhưng trong phần này, điều nhấn mạnh nằm ở chỗ Chúa chậm trễ ngày trở lại (Mat 24:48; Mat 25:5,19).


Có vẻ hợp lý khi ấn định Mat 24:45-25:30 cho Hội thánh của chúng ta hiện nay, trong thời gian ấy rõ ràng Chúa đang chậm trễ ngày Ngài trở lại (IIPhi 3:1-18). Phần kết thúc (Mat 25:31-46) mô tả sự đoán phạt mà Chúa thi hành khi Ngài trở lại trần gian. Nhìn chung, những lời dạy dỗ trong Bài Giảng Trên núi Ô-li-ve liên quan đến dân Do-thái (Mat 24:4-44), Hội thánh xưng nghĩa (Mat 24:45-25:30), và các nước ngoại bang (Mat 25:31-46).

Điều này tương ứng với sự phân chia loài người ra làm ba được Phao-lô nhắc đến trong ICôr 10:32. Chúng ta đã nghiên cứu chi tiết sự tái lâm của Chúa có liên quan đến dân Y-sơ-ra-ên, vì vậy chúng ta hãy xem sự trở lại của Chúa trong hai mối tương quan còn lại.


1. Sự tái lâm của Đấng Christ và Hội thánh xưng nghĩa (Mat 24:45-51)

Chúng ta không nên ngạc nhiên khi Chúa thình lình thay đổi từ cuộc nói chuyện về sự tái lâm của Ngài có liên quan đến dân Y-sơ-ra-ên sang sự tái lâm có liên quan đến Hội thánh. Không phải là chuyện bất thường trong Kinh Thánh đối với người nói hoặc viết thay đổi lối nhấn mạnh ở giữa một câu.

Ví dụ, toàn bộ thời đại Hội thánh xảy ra trong khoảng thời gian giữa các chữ được ban cho và và trong Es 9:5. Chúng ta cũng thấy “nhảy vọt” tương tự trong Es 61:2, nơi thời đại Hội thánh diễn ra trong khoảng thời gian giữa “năm ban ơn của Đức Chúa Trời” và “ngày báo thù”.


Trong phần dành cho dân Y-sơ-ra-ên, Chúa Giê-xu chủ yếu mô tả những biến cố bên ngoài khoảng thời gian trong phần này, Ngài mô tả những quan điểm bên trong. Trong lúc mọi kẻ tin nhận Chúa Giê-xu Christ làm Cứu Chúa sắp về thiên đàng (Gi 3:16-18; Gi 17:24), thì không phải mọi kẻ tin đều sẵn sàng gặp Chúa.


Khi Chúa Giê-xu Christ tái lâm và đem Hội thánh Ngài về trời, Ngài sẽ ngồi trên ngai xét đoán mà xét đoán các dân (Rô 14:10-12; IICôr 5:8-11). Ngài sẽ không đoán xét tội lỗi chúng ta, bởi vì tội lỗi chúng ta đã bị Ngài đoán xét trên thập tự giá (Rô 8:1-4). Nhưng Ngài xét đoán công việc chúng ta và sẽ ban thưởng cho những ai được hưởng (ICôr 3:9-15). Các thí dụ này cho thấy Chúa Giê-xu sẽ phán xét ba nhóm tín hữu khác nhau.


Đầy tớ trung tín và đầy tớ bất trung (Mat 24:45-51). Con dân Đức Chúa Trời trên thế gian được gọi là một gia đình (Ga 6:10; Eph 2:19). Đức Chúa Trời đặt để các tôi tớ trong mỗi gia đình để săn sóc các thành viên trong gia đình. Điều này gợi cho chúng ta suy nghĩ về Hội thánh địa phương nhóm trong gia đình có những người hướng dẫn thuộc linh. Mục đích của việc lãnh đạo thuộc linh ấy là người hướng dẫn chăm sóc nuôi dưỡng đời sống tâm linh của tín hữu, chớ không phải tín hữu chăm lo người hướng dẫn! Sứ đồ Phi-e-rơ đã nắm lấy lẽ thật này và nhấn mạnh điều đó trong thơ thứ nhất của ông (IPhi 5:1-4).


Làm mục sư hoặc chức viên khác trong Hội thánh địa phương là việc hệ trọng. Chúng ta phải thận trọng cân nhắc xem động cơ chúng ta có đúng đắn không và chúng ta có hầu việc Đấng Christ và con cái Ngài bằng tình thương hay không. Bằng lời nói lẫn việc làm, chúng ta phải dẫn dắt gia đình theo lối công bình (He 13:7-8). Các thành viên trong gia đình phải thuận phục sự chăn dắt thuộc linh, bởi vì một ngày kia cả con cái Chúa lẫn người hướng dẫn thuộc linh sẽ ứng hầu trước tòa án Đấng Christ (He 13:17).


Trách nhiệm của tôi tớ không phải để được nổi tiếng, nhưng để vâng lời. Tôi tớ phải cung cấp vật thực cần dùng cho gia đình, khi gia đình cần đến. Tôi tớ phải mang ra khỏi “kho thuộc linh” của mình những vật mới và cũ (Mat 13:52).

Trong việc tìm kiếm những điều mới lạ hấp dẫn, một số thầy dạy Kinh Thánh đã quên chất bổ dưỡng thuộc linh trong lẽ thật của lời Đức Chúa Trời. Nhưng các người dạy đạo khác chỉ nghĩ đến nội dung xưa cũ đến nỗi không khám phá được những dạy dỗ và ứng dụng tươi mới của lẽ thật cũ. Ý mới phát sinh từ điều cũ, và điều mới làm cho điều cũ được đầy đủ ý nghĩa hơn.


Nếu người hướng dẫn thuộc linh đang bền lòng làm công việc của mình khi Chúa trở lại, người ấy sẽ nhận phần thưởng. Nhưng nếu trễ nãi công việc mình lúc Chúa tái lâm, người ấy sẽ bị đối đãi cách cay nghiệt. Tôi thích dịch Mat 24:51: “Và sẽ xử phạt nó cách nặng nề và định phần nó đồng với kẻ giả hình...” (Thậm chí trong thời chuyên chế, người ta không thể nghĩ rằng một người chủ có thể chặt kẻ tôi tớ ra làm hai). Toàn bức tranh là sự đau đớn và hư mất. Điều này không đưa ra những biện pháp trừng phạt trước ngôi phán xét của Đấng Christ, bởi vì tại đó thân thể chúng ta sẽ được vinh hiển. Nhưng điều đó nhắc đến sự mất phần thưởng và lỡ đi cơ hội hầu việc Đức Chúa Trời.


Chúa Giê-xu không thổi phồng lẽ thật ở đây, nhưng qua các phần Kinh Thánh khác chúng ta biết rằng phần thưởng dành cho sự hầu việc trung kiên sẽ là một chức vụ trong vương quốc Ngài sẽ thiết lập trên thế gian Lu 19:11). Phần thưởng cho sự trung tín hầu việc là khả năng hầu việc lớn hơn. Theo tôi, không có phần trong vương quốc của Ngài là một thua thiệt lớn.


Điều gì đã gây cho người tôi tớ này sa ngã? Trong lòng anh ta có điều sai trật: Anh ta thôi mong đợi Chúa mình trở lại (Mat 24:48). Anh ta sống giống như thế gian và bạc đãi đồng bạn của mình. Bất cứ khi nào các tôi tớ của Đức Chúa Trời không thể cùng làm việc với nhau, thường là vì lúc ấy một ai đó đã quên rằng Chúa sẽ trở lại. Tìm kiếm và yêu mến trông đợi sự hiện đến của Chúa sẽ khích lệ chúng ta trung tín và yêu mến Ngài (IGi 2:28; ITes 2:19-20).


2. Những cô phụ dâu khôn và dại (Mat 25:1-13)

Vào thời đó một đám cưới có hai giai đoạn. Đầu tiên chàng rể và bạn bè sẽ từ nhà mình đi đến xin rước dâu nơi cha mẹ của nàng. Sau đó cô dâu và chàng rễ sẽ trở về nhà chàng rễ để tổ chức tiệc cưới. Vấn đề đặt ra ở đây là chàng rễ đã rước cô dâu của mình và đang trên đường trở về nhà. Tuy nhiên, chúng ta không nên nhấn mạnh quá xa hình ảnh Hội thánh trong vai trò một cô dâu, vì nhiều điều trong chân lý này không được bày tỏ cho đến khi Phao-lô thi hành chức vụ (Eph 5:22).


Trải qua 2.000 năm Hội thánh biết rằng Chúa Giê-xu sắp trở lại, nhưng có nhiều người đã trở nên mê muội và ngủ quên. Họ không còn thích thú mong đợi sự trở lại nay mai của Chúa. Kết quả là có ít chứng nhân đầy ơn rao giảng về sự tái lâm của Chúa.


Dầu thắp sáng nhắc nhở chúng ta về loại dầu đặc biệt dùng trong đền thờ (Xu 27:20-21). Dầu luôn là biểu tượng của Thánh Linh Đức Chúa Trời, nhưng tôi tự hỏi liệu dầu đặc biệt này cũng là Lời Đức Chúa Trời chăng? Hội thánh phải “giữ lấy đạo sự sống” trong thế giới mờ tối gian ác này (Phi 2:12-16). Chúng ta cần phải gìn giữ lời nhịn nhục của Ngài (Kh 3:10) và tiếp tục rao truyền về ngày tái lâm của Chúa Giê-xu Christ.


Khi chàng rễ và cô dâu xuất hiện, nửa số người phụ dâu không thể thắp sáng đèn của mình vì họ không có dầu. Họ kêu lên “Đèn của chúng tôi sắp tắt!”. Những phụ dâu có dầu thắp sáng được đèn của mình và giữ đèn luôn cháy sáng. Chính họ đã đi vào trong tiệc cưới và các cô gái dại dột bị bỏ ở ngoài vì không có dầu. Điều này nhắc nhở chúng ta không phải mọi người tin Chúa đều sẽ vào thiên đàng, vì thực sự một số người không tin Chúa thật lòng. Không có Thánh Linh và Lời của Đức Chúa Trời, không thể có được ơn cứu rỗi thật.


Chúa Giê-xu kết thúc ví dụ này bằng lời cảnh tỉnh mà Ngài đã phán trước đó: “Hãy tỉnh thức” (Mat 24:42; Mat 25:13). Điều này không có nghĩa đứng trên một ngọn núi và hướng mắt lên trời (Công 1:9-11). Nhưng chúng ta phải “thức canh và cầu nguyện” (Mat 26:38-41).


3. Các đầy tớ làm lợi cho chủ và đầy tớ biếng nhác (Mat 25:14-30).

Chúng ta không nên lẫn lộn thí dụ này với thí dụ về các nén bạc Lu 19:11-27) mặc dầu cả hai thí dụ đều có những điểm giống nhau. Xin lưu ý mỗi đầy tớ trong thí dụ này đều nhận tiền (một ta-lâng trị giá bằng khoảng 20 năm tiền công) tùy theo khả năng làm việc của người thợ. Đầy tớ có nhiều khả năng nhận năm ta-lâng người có khả năng trung bình nhận hai ta-lâng người có khả năng thấp nhận một ta-lâng.


Các ta-lâng tiêu biểu cho các cơ hội để chúng ta sử dụng khả năng của chúng ta. Nếu chủ giao năm ta-lâng cho người có ít khả năng, người đó sẽ bị hại vì trách nhiệm quá nặng. Nhưng nếu chủ chỉ giao một ta-lâng cho người có nhiều khả năng, anh ta sẽ thấy mình bị xúc phạm và giảm giá trị. Đức Chúa Trời giao công việc và cơ hội tùy theo khả năng. Chúng ta đang sống trong thời kỳ giữa câu Mat 25:18 và Mat 25:19. Chúa đã giao trọng trách cho chúng ta tùy theo năng lực chúng ta có và ơn của Ngài. Chúng ta có đặc ân hầu việc Đức Chúa Trời và làm lợi của cải Ngài giao cho.


Ba người đầy tớ có thể chia thành hai hạng: trung tín và bất nghĩa. Các đầy tớ trung tín nhận ta-lâng của họ và đem làm lợi cho Chúa. Người đầy tớ biếng nhác đào đất chôn giấu số vàng của chủ. Thay vì tận dụng cơ hội, anh ta đã chôn chúng! Anh ta không có ý định làm điều ác. Nhưng bởi vì không làm gì cả, anh ta phạm tội và đánh mất cơ hội phục vụ Chúa và phát triển đạo Ngài.


Hai người đầy tớ làm lợi cho chủ mỗi người đều nhận cùng một sự ban thưởng (Mat 25:21,23). Sự khác nhau không phải do phần thưởng được nhận nhưng do tỉ lệ cân xứng trong công việc của mỗi người được giao. Bắt đầu nhận công việc của chủ họ là dầy tớ, nhưng Chủ đã cất nhắc họ lên làm quan cai trị. Họ trung tín trong việc nhỏ, vì vậy Chủ tin cậy giao cho công việc lớn. Họ đã vất vả làm việc, và bây giờ họ đi vào hưởng sự vui mừng. Lòng tận trung đã đem lại cho mỗi người trong số họ khả năng hầu việc và trách nhiệm lớn lao hơn.


Người đầy tớ thứ ba không trung tín và không được chủ ban thưởng. Vì người này sợ thất bại, anh ta không bao giờ nổ lực để thành công. Anh ta sợ hãi cuộc sống và trách nhiệm. Điều này làm anh ta thúc thủ vì lo âu, do đó anh ta đem chôn giấu ta-lâng để bảo vệ nó. Ít ra anh ta cũng có thể mang gởi tiền của chủ vào ngân hàng và thu được lợi nhuận cho chủ. Không có sự rủi ro nào xảy ra trong khi làm việc ấy.


Những gì chúng ta không sử dụng cho Chúa, chúng ta sẽ dễ dàng đánh mất điều đó. Chủ quở trách người đầy tớ bất trung không làm lợi cho chủ, và lấy lại ta- lâng nơi người. Người có nhiều ta-lâng nhất sẽ nhận ta-lâng ấy.

Một số người nghĩ rằng người đầy tớ không làm lợi cho chủ không phải là tín đồ thật. Nhưng dường như anh ta đã là người tin Chúa thật, cho dù anh ta chứng tỏ mình vô dụng. “Chỗ tối tăm bên ngoài” trong Mat 25:30 không phải ám chỉ nơi địa ngục, mặc dầu đó là trường hợp thường ghi lại trong các sách Phúc-Âm (Mat 8:12; Mat 22:13). Xây dựng hệ thống giáo lý thần học dựa trên các thí dụ thật là nguy hiểm, vì các thí dụ giúp minh họa cho lẽ thật thêm sinh động. Con người được Chúa phân xử, họ mất cơ hội phục vụ Ngài, và không nhận được phần thưởng cùng lời khen ngợi. Theo tôi, đó là chốn bên ngoài tối tăm.


Có thể người nhận một ta-lâng nghĩ rằng ta-lâng của mình không quan trọng. Anh ta không có năm ta-lâng hoặc hai ta-lâng. Tại sao lại thắc mắc vì có một ta- lâng?Bởi vì anh ta được Đức Chúa Trời chỉ định làm người quản lý. Trong thế giới chúng ta nếu có những người một-ta-lâng, thì có lẽ rất ít công việc được hoàn tất. Đáng lẽ ra ta-lâng của anh ta có thể tăng thành hai và đem lại sự vinh hiển cho chủ.


Ba thí dụ này khích lệ chúng ta yêu mến sự hiện đến của Ngài, tìm kiếm trông đợi Ngài, và hầu việc Ngài cách chuyên tâm cho đến lúc Ngài trở lại. Chúng ta phải thức canh, rao truyền danh Chúa và phục sự Ngài. Có thể chúng ta không thành công theo con mắt loài người, hoặc được người ta yêu chuộng. Nhưng nếu trung tín và kết quả cho Chúa, chúng ta sẽ nhận phần thưởng.


4. Sự tái lâm của Đấng Christ và các nước ngoại bang (Mat 25:31-46)

Phần này giải thích cho chúng ta biết cách nào Chúa Giê-xu Christ sẽ xét đoán các nứơc ngoại bang. Chữ 'các dân tộc' trong Mat 25:32 có nghĩa “các dân ngoại bang”, và từ này thuộc giống trung tính trong tiếng Hy-lạp. Chữ 'họ' trong cùng câu ấy thuộc giống đực. Điều này có nghĩa các dân tộc sẽ nhóm hiệp trước mặt Chúa Giê-xu Christ, nhưng Ngài sẽ phán xét họ theo từng người. Ngài sẽ không phán xét theo từng nhóm dân tộc (người Đức, Nhật, Ý...) nhưng mỗi cá nhân trong các nước sẽ khai trình trước mặt Ngài.


Chúng ta không nên lẫn lộn sự phán xét này với sự phán xét trước Tòa Án Lớn Và Trắng mô tả trong Kh 20:11-15. Một số học giả nhập cả hai phân đoạn lại với nhau và gọi là “sự phán xét chung”. Kinh Thánh không cho biết gì về “sự phán xét chung”. Phiên tòa này diễn ra trên thế gian ngay sau trận chiến tại Ha-ma-ghê-đôn.Tòa án Lớn và Trắng tiến hành tại nơi nào đó trên không trung “trời đất đều trốn hết”, (Kh 20:11). Phiên tòa ghi trong Ma-thi-ơ diễn ra trước khi thành lập vương quốc trên trần gian, vì Chúa phán với những người được cứu “nhận lấy Nước thiên đàng đã sắm sẵn” (Mat 25:34). Phiên tòa lớn và trắng sẽ được diễn ra sau 1.000 năm Đấng Christ trị vì (Kh 20:7).


Chúng ta cần tránh một sai sót khác nữa. Không nên áp đặt phân đoạn Kinh Thánh này vào sự dạy dỗ về ơn cứu rỗi bởi việc lành. Đọc Kinh Thánh cách hời hợt qua loa sẽ khiến ta nghĩ rằng giúp đỡ người lân cận là có đủ điều kiện để nhận được sự cứu rỗi và vào thiên đàng. Nhưng đây không phải là sứ điệp của phân đoạn Kinh Thánh này. Trên thế giới từ trước đến nay chưa hề có ai được cứu bởi việc làm cả.


Các thánh đồ trong thời Cựu-ước được cứu bởi đức tin (He 11:40) các thánh đồ trong thời Tân-ước được cứu cùng một cách như vậy. Phúc-Âm của “làm việc thiện” không phải là sứ điệp của Thánh Kinh. Cơ-đốc nhân có bổn phận làm việc lành (He 13:16 Ga 6:10), nhưng đây không phải là phương cách người không tin có thể được cứu.


Nếu chúng ta nhớ cả ba nhóm người trong bản văn miêu tả, sẽ giúp chúng ta giải quyết được vấn đề này: Có chiên, dê và người anh em. Những người này là ai mà Vua gọi là “Anh em ta”? Có thể họ là những người Do-thái tin đạo trong cơn Đại Nạn. Đây là những người đã nghe 144.000 chứng nhân rao giảng sứ điệp và tin theo Chúa Giê-xu Christ.

Bởi vì những người Do-thái tin đạo này không nhận “dấu hiệu của con thú” (Kh 13:16-17), cho nên họ không thể mua bán trao đổi. Lúc ấy làm thế nào họ sống sót được? Do lòng yêu thương quan tâm của người ngoại bang đã tin nhận Chúa Giê-xu Christ và họ đã chăm sóc người anh em của Ngài.


Điều thú vị trong phiên tòa này đó là cá nhân các con chiên ngạc nhiên về điều họ nghe. Họ không nhớ đã thấy Chúa Giê-xu Christ và cung cấp sự cần dùng cho Ngài lúc nào. Nhưng khi yêu thương chăm sóc các tín hữu Do-thái, thì họ đã làm cho Đấng Christ. Động cơ giúp đỡ của họ không phải vì phần thưởng nhưng do lòng yêu thương hiến dâng.

Thực ra, những người ngoại bang này có thể mất mạng sống khi tiếp đãi và chăm sóc những người Do-thái không nơi nương tựa này. Chúa Giê-xu phán với các môn đệ “Ai rước các ngươi tức là rước Ta” và quả thật điều này cũng ứng dụng đối với các anh em Ngài.


Những người được kể là dê bị đoán phạt vì họ không tin nhận Chúa Giê-xu Christ và bày tỏ đức tin ấy qua việc chăm sóc anh em của Ngài. Hình như họ đã nhận lãnh dấu của con thú và chỉ lo lắng riêng cho chính mình và những gì thuộc về họ, nhưng không có thời gian quan tâm đến số người Do-thái còn sót lại đang chịu đau đớn trên thế gian (Kh 12:17). Tội sơ sót cũng giống như tội cố ý Gia 4:17). Không làm điều thiện cũng kể như làm điều ác.


Khi so sánh hai bản án (Mat 25:34,41), chúng ta khám phá một số chân lý mới lạ. Khởi đầu là Cha ban phước cho chiên nhưng bản án không nói rõ dê bị “Cha rủa sả”. Chiên (người công chính) hưởng được Nước thiên đàng, và sự thừa hưởng đặt nền tảng trên sự tái sinh. Vì họ đã được sanh lại bởi đức tin, cho nên họ hưởng được Nước thiên đàng.


Nước thiên đàng được sắm sẵn cho cá nhân những người đã được cứu, nhưng câu Mat 25:41 không nói đến hồ lửa đời đời dành cho những người gian ác (dê). Hồ lửa đã để dành cho ma quỷ và các kẻ thuộc về nó (Kh 20:10). Đức Chúa Trời chẳng hề chuẩn bị địa ngục cho con người. Qua Thánh Kinh không có bằng chứng nào cho thấy Đức Chúa Trời an bài cho con người phải vào địa ngục. Nếu tội nhân nghe theo quỷ Sa-tan, và bước theo con đường của nó, họ sẽ đến nơi ma quỉ sẽ đến -nơi đau đớn đời đời trong hỏa ngục. Chỉ có hai số phận đời đời: hình phạt đời đời cho những người từ chối không tiếp nhận Đấng Christ hoặc sự sống đời đời cho những người tin nhận Ngài.


Người công chính (chiên) được đưa vào thiên đàng để cùng dự phần trong vinh quang của Đấng Christ. Hội Thánh sẽ cùng trị vì với Đấng Christ, và dân Y-sơ-ra- ên sẽ tận hưởng sự trọn vẹn của lời hứa qua miệng các đấng tiên tri. Tất cả muôn vật sẽ dự phần trong sự tự do vinh hiển của con cái Đức Chúa Trời (Ro 8:19-21). Chúa Giê-xu Christ sẽ cai trị trên ngôi Đa-vít tại Giê-ru-sa-lem Lu 1:30- 33), và sự bình an sẽ ngự trị trong 1.000 năm (Es 11:1-16).


Khi đọc lại Bài Giảng Trên Núi Ô-li-ve, chúng ta nên nhắc lại một vài sự kiện.


-Đầu tiên Đức Chúa Trời chưa hoàn tất chương trình của Ngài đối với dân Y-sơ-ra- ên.Chúa Giê-xu phán rõ ràng trong bài giảng này là dân Y-sơ-ra-ên sẽ được tẩy sạch tội lỗi và tin đến danh Đấng Mê-si-a. Đức Chúa Trời không bỏ dân Ngài (Ro 11:1).


-Kế đến, các lời hứa trong Cựu-ước về Nước thiên đàng sẽ ứng nghiệm. Cơn Đại Nạn sẽ là thời kỳ rất khó khăn cho dân cư trên thế gian. Nhưng đó sẽ là thời gian “khổ nạn” để chuẩn bị cho sự khai sinh Nước thiên đàng. Đau khổ sẽ dẫn đến vinh hiển.


-Thứ ba, Đức Chúa Trời sẽ đoán xét thế gian này. Ngày nay Ngài không giáng những cơn hình phạt trên thế gian bởi vì đây là thời ân điển như lời Ngài phán dạy, ”Anh em được hòa thuận lại cùng Đức Chúa Trời” (IICôr 5:14).

Trời đất im lặng bởi vì tội lỗi con người đã bị đoán phạt tại thập tự giá. Qua Con của Ngài Đức Chúa Trời đã phán một lần đủ cả, và Ngài sẽ không phán dạy với thế gian này nữa cho đến ngày Ngài sai cơn đoán phạt đến trong suốt kỳ Đại Nạn.


-Thứ tư, Cơ-đốc nhân và là chi thể trong Hội thánh Đấng Christ chúng ta không tìm kiếm dấu lạ. “Người Giu-đa đòi dấu lạ” (ICôr 1:22). Sẽ không có dấu lạ nào được bày tỏ trước khi Đấng Christ thình lình hiện ra tại không trung để tiếp rước Hội thánh Ngài.

Tuy nhiên, khi thấy một số dấu lạ trong cơn Đại Nạn bắt đầu xảy ra (“Khi các việc đó khởi xảy đến” Lu 21:28), chúng ta cảm thấy sự cuối cùng đã gần. Dường như những căng thẳng và xung đột xảy ra giữa các nước đang gia tăng đến mức thế giới đòi hỏi phải có một nhà độc tài, và quỷ Sa-tan chuẩn bị sẵn ứng cử viên của nó.


-Cuối cùng, cho dù có nhìn nhận lời tiên tri như thế nào chăng nữa, chúng ta cũng biết rằng Chúa Giê-xu sắp trở lại. Là Cơ-đốc nhân, chúng ta phải thức canh và chờ sẵn. Chúng ta không nên bỏ phí dịp tiện. Có thể chúng ta không có nhiều khả năng hoặc ân tứ, nhưng chúng ta vẫn có thể trung tín với tiếng gọi của Ngài đã ban cho chúng ta.



 


22. SỰ CHUẨN BỊ CỦA NHÀ VUA (Mat 26:1-56)


Các sự kiện đang dần đến cao điểm. Nhà Vua sửa soạn chịu đau đớn và chết. Quá trình chuẩn bị gồm ba giai đoạn tại ba địa điểm khác nhau. Khi nghiên cứu các giai đoạn này, chúng ta có thể hiểu sự bất đồng ngày càng lớn giữa Chúa Giê-xu và kẻ chống nghịch Ngài.


1. Tại làng Bê-tha-ni: thờ phượng đối kháng hoang phí (Mat 26:1-16)

Ma-thi-ơ không tuyên bố sẽ cung cấp cho chúng ta hệ thống diễn tiến các sự kiện của tuần lễ cuối cùng theo trình tự thời gian. Lúc này ông chen vào một khung cảnh hồi tưởng lại bữa tiệc tại làng Bê-tha-ni và hành động thờ phượng đẹp đẽ Ma-ri đã thực hiện.

Các nhà lãnh đạo tôn giáo đang họp nhau lại để tìm mưu chống nghịch Chúa Giê-xu, nhưng các bạn hữu Ngài nhóm lại để bày tỏ tình yêu và lòng tận hiến với Ngài. Hơn nữa, khi nối kết hai câu chuyện, Ma-thi-ơ cho thấy mối tương quan giữa tấm lòng tôn kính Chúa của Ma-ri và sự phản trắc của Giu-đa. Chính sau bữa tiệc tại làng Bê-tha-ni, Giu-đa đến nơi các thầy tế lễ và hiến kế giao nộp Chúa (Mac 14:10-11). Lời Chúa quở trách khiến Giu-đa liền phản ứng như vậy.


Bữa tiệc diễn ra “sáu ngày trước lễ Vượt Qua” (Gi 12:1) tại nhà Si-môn, một người bị phung. Rõ ràng người đã được Đức Chúa Giê-xu chữa lành bệnh phung. Ít nhất có 17 người dự bữa tiệc này: Si-môn, Ma-ri, Ma-thê, La-xa-rơ, Chúa Giê-xu, và Mười Hai Sứ Đồ. Đúng với tính cách của Ma-thê là “người thạo việc” trong gia đình, nàng lo việc phục vụ bữa ăn (Lu 10:38-42). Ba nhân vật chính trong sự kiện này là Ma-ri, Giu-đa và Chúa Giê-xu.


(1). Ma-ri (Mat 26:7).

Chỉ có Phúc-Âm Giăng cho biết rõ người đàn bà này là Ma-ri, em của Ma-thê và La-xa-rơ. Ma-ri được nhắc đến ba lần trong các sách Phúc-Âm, và trong mỗi trường hợp Ma-ri đều ngồi nơi chân Chúa Giê-xu. Người ngồi dưới chân Chúa nghe lời Ngài (Lu 10:38-42) người sấp mình xuống nơi chân Ngài với nỗi đau thương sau cái chết của La-xa-rơ (Gi 11:28-32) và người thờ lạy nơi chân Chúa khi xức dầu thơm cho Ngài (Gi 12:1). Ma-ri là một phụ nữ yêu mến Chúa sâu sắc. Người tìm thấy phước hạnh nơi chân Chúa, mang gánh nặng đặt nơi chân Chúa, và dâng của quý nhất nơi chân Chúa.


Khi kết hợp các bản ghi chép trong các sách Phúc-Âm, chúng ta biết rằng người xức dầu nơi đầu và chân Chúa, rồi dùng tóc lau chân Ngài. Mái tóc là sự vinh hiển của phụ nữ (ICôr 11:15). Người dâng sự vinh hiển của mình cho Chúa và thờ lạy Ngài bằng của dâng quí giá người mang theo. Chính hành động yêu thương và tận hiến ấy đã tỏa hương thơm cho khắp nhà.


Do đã nghe lời Ngài giảng dạy, Ma-ri biết rằng chẳng bao lâu nữa Chúa Giê-xu sẽ chịu chết và bị chôn. Người cũng biết rằng thân xác Ngài sẽ không cần phải chăm sóc theo tục lệ dành cho người chết vì thân thể Ngài không trải qua sự hư nát (Thi 16:10; Công 2:22-28). Người đã xức dầu cho Chúa thay vì xức xác Ngài sau khi Ngài chết. Đó là hành động của đức tin và lòng yêu mến Chúa.


(2). Giu-đa (Công 26:8-9).

Các môn đệ không biết bản chất thật của Giu-đa. Lời Giu-Đa phê phán Ma-ri nghe có vẻ “thiêng liêng” đến nỗi họ hiệp với Giu-Đa chê trách Ma-ri. Chúng ta biết lý do thật sự Giu-đa muốn bán bình dầu ấy:Tiền bán được sẽ sung vào trong ngân quĩ và người có thể sử dụng tiền ấy (Gi 12:6).


Giu-đa là một hình ảnh bi thảm.

Người được Chúa kêu gọi làm môn đệ Đấng Christ và được xưng là sứ đồ như bao sứ đồ khác (Mac 3:13-19). Người nhận lãnh quyền năng chữa bịnh (Mat 10:1-4), và có thể người đã dùng năng quyền này. Không phải có năng quyền làm phép lạ là bằng chứng được ơn cứu rỗi (Mat 7:21-29), nhưng là do vâng theo lời phán dạy của Đức Chúa Trời.


Mặc dầu ở trong nhóm các môn đệ, cùng làm việc với Đấng Christ, nhưng Giu-Đa không phải là môn đệ thật. Khi Chúa Giê-xu rửa chân cho các môn đệ, Ngài phán rõ rằng một người trong số họ (Giu-đa) chưa được tinh sạch (Gi 13:10-11). Giống như nhiều Cơ-đốc nhân ngày nay, có những Giu-đa “ở” trong tập thể người tin đạo nhưng không “thuộc về” tập thể ấy.


Hãy lưu ý mỗi lần Ma-ri tìm cách làm điều gì cho Chúa Giê-xu, người đều bị hiểu lầm. Ma-thê chị người hiểu lầm khi Ma-ri ngồi nơi chân Chúa nghe lời Ngài dạy. Giu-đa và các môn đệ hiểu lầm khi người xức dầu cho Chúa Giê-xu. Bạn hữu và xóm giềng hiểu lầm khi người ra khỏi nhà tìm gặp Chúa Giê-xu sau khi chôn cất La-xa-rơ (Gi 11:28-31). Khi chúng ta dâng điều ưu tiên trong đời sống cho Chúa Giê-xu Christ, chắc chắn chúng ta có thể bị hiểu lầm chỉ trích từ những người cho rằng họ tin thờ Ngài.


Tại sao Giu-đa theo Chúa Giê-xu ba năm, nghe lời phán dạy của Ngài, dự phần trong chức vụ của Ngài, nhưng rồi lại phản bội Ngài? Một điều chắc chắn: Giu-đa không phải là nạn nhân của hoàn cảnh hoặc công cụ thụ động của Đức Chúa Trời. Chính lời tiên tri đã cho biết một trong những người thân cận Đấng Mê-si-a sẽ phản Ngài (Thi 41:9; Thi 55:12-14). Nhưng điều này không làm nhẹ bớt trách nhiệm của Giu-đa. Chúng ta không nên xem Giu-đa là kẻ tử đạo vì đã làm ứng nghiệm lời tiên tri này.


Chúng ta không thể nào hiểu trọn vẹn khối óc và con tim của Giu-đa, nhưng chúng ta biết chắc rằng người có nhiều cơ hội để được cứu. Người thường được Chúa Giê-xu nhắc nhở cảnh tỉnh nơi Phòng Cao, thậm chí Chúa Giê-xu đã rửa chân cho Giu-đa.

Có lẽ Giu-đa nhìn thấy trong Chúa Giê-xu tia hy vọng dân Y-sơ-ra-ên được tự do về chính trị. Nếu Chúa Giê-xu thiết lập vương quốc của Ngài, thi Giu- đa, người giữ túi bạc, chắc chắn có địa vị quan trọng. Khi Chúa Giê-xu nhiều lần từ chối không làm Vị Cứu tinh về mặt chính trị, Giu-đa quay gót chống lại Ngài. Quỷ Sa-tan tìm thấy một công cụ sẵn sàng trong con người Giu-đa. Quỷ Sa-tan đặt để ý tưởng phản Ngài trong tâm trí Giu-đa (Gi 13:2) và rồi nhập vào để sai khiến Giu-đa phản nộp Chúa Giê-xu cho kẻ thù (Gi 13:27).


Cuộc đời Giu-đa là lời cảnh tỉnh cho những ai giả bộ hầu việc Đấng Christ nhưng tấm lòng lại cách xa Đức Chúa Trời. Con người Giu-đa cũng là bài học nhắc nhở cho người bỏ phí cơ hội và cuộc đời của mình. Khi thấy Ma-ri đập vỡ bình dầu quý giá xức chân Chúa Giê-xu, Giu-đa hỏi, “Sao phí của như vậy?” Tuy nhiên, Giu- đa đã phí dịp tiện, cuộc đời và linh hồn của mình! Chúa Giê-xu gọi ông ta là con trai của sự hư mất (Gi 17:12)


(3). Chúa Giê-xu (Mat 26:10-16).

Chúa Giê-xu lập tức bảo vệ Ma-ri, vì Ngài luôn che chở kẻ thuộc về Ngài. Ngài quở trách Giu-đa cùng các môn đệ khác và Ngài khen ngợi Ma-ri vì việc làm bày tỏ lòng yêu thương tận hiến của người. Không có điều gì chúng ta lấy lòng yêu thương dâng cho Chúa Giê-xu lại trở thành hoang phí.

Việc Ma-ri xức dầu thơm cho Chúa không những làm Chúa Giê-xu đẹp lòng và tỏa mùi thơm khắp nhà, nhưng còn đem phuớc hạnh cho toàn thế giới. Hành động dâng hiến của Ma-ri khích lệ chúng ta yêu mến và hầu việc Đấng Christ bằng khả năng tốt nhất của chúng ta. Sự hầu việc như vậy mang lại phước hạnh cho người khác mà có thể chúng ta không biết cho đến khi gặp Ngài.


Chúa Giê-xu không chỉ trích các môn đệ vì họ quan tâm đến người nghèo. Ngài đoái thương đến người nghèo, và chúng ta cũng nên như vậy. Ngài đang khuyên họ coi chừng đánh mất dịp tiện tôn thờ Chúa. Họ luôn có dịp tiện để giúp đỡ người nghèo. Nhưng họ sẽ không có Ngài luôn luôn để thờ lạy nơi chân Ngài và sửa soạn cho sự qua đời của Ngài.


2. Trong phòng cao: sự trung thành đối kháng với sự phản bội (Mat 26:17-30)

Sửa soạn cho lễ Vượt Qua (Mat 26:17-19).

Mua sắm và chuẩn bị các vật dụng cần dùng cho lễ Vượt Qua là điều cần thiết. Cũng cần tìm một nơi trong thành phố Giê-ru- sa-lem đông đúc để tổ chức buổi lễ. Vì vậy Chúa Giê-xu sai Phi-e-rơ và Giăng tiến hành các công việc chuẩn bị quan trọng này (Lu 22:8). Hai người phải đi theo một người mang vò nước và người đó sẽ chỉ cho họ một cái phòng rộng rãi ở trên lầu. Một người đàn ông mang vò nước là điều hết sức bất thường, vì công việc này thường thường do phụ nữ đảm nhận.


Chắc chắn Phi-e-rơ và Giăng phải tranh thủ lo sắm sửa bánh, rau đắng cũng như rượu nho cho bữa tiệc. Họ phải tìm một chiên con, giết chiên con nơi đền thờ và lấy huyết đặt nơi bàn thờ. Họ phải quay nguyên con chiên trên lửa, và rồi bữa tiệc bắt đầu.


Công bố kẻ phản bội (Mat 26:20-25).

Cho đến giờ phút chót các môn đệ cũng không nhận ra Giu-đa một người trong số họ, Giu-đa, là kẻ phản bội. Họ không thấy có sự phân biệt nào trong cách Chúa đối đãi Giu-đa, đây là một lời chứng lạ lùng về lòng nhân từ thương xót của Chúa chúng ta. Trong lễ Vượt Qua khi các môn đệ đang dùng bữa, Chúa Giê-xu thông báo có kẻ phản bội đang hiện diện. Các môn đệ nhìn nhau, tự hỏi ai là kẻ phản Ngài. Họ bèn hỏi Chúa Giê-xu, “Lạy Chúa, có phải tôi không?”. Cách đặt câu hỏi cho thấy họ mong Chúa trả lời không phải họ.


Giu-đa đang nằm tựa bên trái Chúa đây là chỗ ngồi vinh dự trong bữa tiệc. (Điều này có thể giải thích lý do tại sao các môn dồ lại bắt đầu cãi lẫy nhau cho biết ai sẽ được tôn là lớn hơn hết trong đám mình. (Lu 22:24-30). Giăng đang ngồi tựa bên hữu Chúa, vì vậy ông có thể dựa vào ngực Chúa Giê-xu (Gi 13:23). Dùng bánh với nhau là hành động bày tỏ sự thân mật, nhất là bánh được nhúng vào đĩa nước chấm. Thật là một vinh dự khi người chủ tiệc trao cho một mẩu bánh. Chúa Giê-xu đã trao bánh cho Giu-đa (Thi 41:9), Giu-đa nhận bánh từ tay Chúa và trong lòng biết rằng mình đang phản bội Ngài. Đối với Chúa Giê-xu, ban bánh là một cử chỉ ân cần của lòng mến khách đối với Giu-đa, nhận bánh là hành động phản bội xấu xa.


Mat 26:24 cho thấy cả cái nhìn của con người lẫn Đức Chúa Trời trong sự kiện này. Theo quan điểm của Chúa, sự phản trắc của Giu-đa đã được Thánh Kinh báo trước và là một phần trong chương trình của Đức Chúa Trời. Nhưng theo cách nhìn của con người, Giu-đa có hành động đê tiện và hoàn toàn chịu trách nhiệm với việc làm của ông ta. Quyền tể trị của Thiên Chúa và trách nhiệm của con người không trái ngược nhau, mặc dầu có thể chúng ta không hiểu được hai điều ấy kết hợp với nhau như thế nào để làm trọn ý muốn của Đức Chúa Trời.


Sau khi Giu-đa nhận bánh, quỷ Sa-tan nhập vào lòng người (Gi 13:27). Và người đi ra thực hiện lời cam kết với các thầy tế lễ mà giao nộp Chúa Giê-xu vào tay họ thậm chí vào lúc ấy các môn đệ khác không biết Giu-đa đang làm gì. “Người liền đi ra, khi ấy trời đã tối” (Gi 13:30). Đối với Giu-đa mọi sự vẫn còn là đêm tối.


Thiết lập lễ Tiệc Thánh (Mat 26:26-30).

Sau khi Giu-đa đã rời khỏi phòng, Chúa Giê-xu giới thiệu với các môn đệ một điều mới mẻ. Bữa Tiệc Của Chúa ICôr 11:23-34). Ngài dùng bánh không men và chén trong lễ Vượt Qua, để làm hình bóng về sự chết của Ngài. Bánh bẻ ra hình bóng thân thể Ngài phải tan nát vì tội lỗi của nhân loại. “Nước Trái nho” Mat 26:29) hình bóng về huyết của Ngài bị đổ ra để tha tội cho nhiều người. Thánh Kinh không cho biết có điều đặt biệt hoặc mầu nhiệm nào xảy ra cho bánh và chén. Vẫn là bánh và “nước trái nho”nhưng giờ đây có ý nghĩa sâu xa hơn: đó là thịt và huyết của Chúa Giê-xu Christ.


Bữa Tiệc của Chúa nhắc nhở chúng ta trông đợi ngày Đấng Christ trở lại. Chúng ta sẽ giữ bữa tiệc yêu thương này cho đến lúc Ngài đến. (ICôr 11:26). lễ Vượt Qua cho thấy Chiên Con của Đức Chúa Trời là Đấng cất tội lỗi của thế gian Gi 1:29). Bữa Tiệc Của Chúa cho chúng ta biết rằng công tác lớn lao này đã được hoàn tất.


Trong Mat 26:29, Chúa Giê-xu thêm vào sự vinh hiển tương lai trong Nước thiên đàng. Chúa Giê-xu đã ăn bánh, cá và mật sau khi Ngài sống lại Lu 24:41-43; Gi 21:9-15). Nhưng không có chỗ nào chép Ngài đã uống nước trái nho sau khi sống lại. Ngay cả lúc Ngài đối diện với sự chối bỏ của dân sự Ngài và sự đau đớn trên thập tự giá, Ngài đang nghĩ về vương quốc sẽ được thành lập bởi sự hy sinh của Ngài.

Theo tục lệ người ta uống bốn chén trong lễ Vượt Qua, mỗi chén liên quan đến một trong bốn lời hứa chép trong Xu 6:6-7. Chén thứ ba (“Ta sẽ chuộc các ngươi”) là chén Chúa Giê-xu dùng trong Bữa Tiệc của Ngài, bức tranh của sự cứu chuộc mà Ngài sẽ hoàn tất. Chén thứ tư sẽ được ứng nghiệm sau khi thiết lập Nước thiên đàng.


Bài Thơ Thánh mà Chúa Giê-xu và môn đệ hát trước khi rời khỏi phòng cao là một phần của bài Ca Ngợi Chúa, các Thi 116:1-118:29. Hãy đọc các Thi-thiên này dưới ánh sáng của sự chết và sống lại của Đấng Christ để hiểu được lời thi-thiên mang một ý nghĩa mới mẻ. Bạn hãy tưởng tượng tâm trạng Chúa chúng ta như thế nào khi Ngài có thể hát ngợi khen Đức Chúa Trời trong lúc đang đối diện với sự chối bỏ, đau đớn và chết chóc.


3. Vườn Ghết-sê-ma-nê: sự thuận phục tương phản với sự chống cự (Mat 26:31-56)

Tại Núi Ô-li-ve có một khu vườn riêng biệt nơi Chúa Giê-xu thường lui tới cầu nguyện (Gi 18:2). Ghết-sê-ma-nê có nghĩa là ”nơi ép dầu”, một tên gọi đầy ý nghĩa trong sự đau đớn Ngài chịu nơi khu vườn đó.


Ngài báo trước các Môn-đồ sẽ thối lui (Mat 26:31-35).

Lời tuyên bố này có lẽ được ứng nghiệm lúc các môn-đệ bỏ Ngài và trốn đi. Chúng ta thường nhắc đến Phi-e-rơ như là một vị môn-đệ không trung thành với Chúa, nhưng tất cả các môn-đệ đều rời bỏ Ngài. Chúa Giê-xu trích dẫn Xa 13:7 để cảnh báo cho các môn-đệ Ngài, nhưng Ngài còn thêm một lời hứa: Ngài sẽ sống lại và gặp họ tại xứ Ga-li- lê. Buồn thay, các môn-đệ không chú ý gì đến lời hứa về sự sống lại của Ngài. Trong ngày Ngài sống lại, các thiên sứ nhắc họ nhớ lại cuộc hội ngộ tại xứ Ga-li- lê (Mat 28:7,10).


Khi Phi-e-rơ không đồng ý với lời phán của Chúa, ông đã ở khởi điểm của tội chối Chúa. Phi-e-rơ không chịu chấp nhận chữ “tất cả “ có ông trong đó. Thay vì làm cho Phi-e-rơ yên lòng, Chúa cảnh cáo riêng ông: Ông sẽ chối Đấng Christ ba lần! Phi-e-rơ nghĩ rằng ông tốt hơn những người khác, nhưng Chúa Giê-xu phán rằng ông sẽ là kẻ hèn nhát hơn những người khác.


Phi-e-rơ cương quyết bác bỏ lời phán của Đấng Christ và các môn đệ khác cũng đồng lòng như vậy. Nếu như Phi-e-rơ lắng nghe lời phán của Chúa Giê-xu và vâng theo, chắc chắn ông sẽ không chối Ngài đến ba lần.


Chúa Giê-xu hoàn tất sự từ bỏ mình (Mat 26:36-46).

Ngài để tám môn đệ ở tại lối ra vào khu vườn, trong khi đó Ngài đem Phi-e-rơ, Giăng và Gia-cơ đi xa hơn. Đây là lần thứ ba Ngài đem ba môn đệ này đi riêng với Ngài. Họ ở riêng với Ngài trên Núi Hóa Hình (Mat 17:1) và trong nhà của Giai-ru nơi Ngài kêu con gái Giai-ru sống lại (Lu 8:49). Ngài muốn họ tỉnh thức và cầu nguyện. Ngài đang trải qua giờ phút khó khăn, và sự hiện diện của các môn đệ sẽ an ủi khích lệ Ngài.


Chúng ta không nên nghĩ rằng chính nỗi sợ chết đã làm Chúa đau đớn tại vườn Ghết-sê-ma-nê. Ngài không sợ sự chết, nhưng Ngài đối diện cái chết với lòng can đảm và bình an. Ngài sắp “uống cạn chén đau thương” mà Cha Ngài đã dành sẵn, và điều này có nghĩa Ngài gánh tội của thế gian trong thân thể Ngài (Gi 18:11; IPhi 2:24).

Nhiều người yêu mến Chúa đã bị bắt, bị đánh đập và bị giết vì cớ đức tin của họ. Nhưng chỉ có Chúa Giê-xu mang lấy tội lỗi và sự rủa sả vì cớ con người (IICôr 5:21; Ga 3:13). Đức Chúa Cha không hề rời bỏ những kẻ thuộc riêng về Ngài, tuy nhiên Ngài đã lìa bỏ Con Ngài (Mat 27:46). Đây là chén mà Chúa Giê-xu bằng lòng uống vì tội lỗi chúng ta.


Chúa Giê-xu không vật lộn với ý chỉ của Đức Chúa Trời hoặc chống lại ý muốn của Cha Ngài. Ngài tự thuận phục ý định của Đức Chúa Trời. Là một người trọn vẹn, Ngài cảm thấy gánh nặng tội lỗi quá lớn, và tâm linh thánh khiết của Ngài ghê tởm tội lỗi. Tuy nhiên là Con Đức Chúa Trời, Ngài biết rằng đây là sứ mạng của Ngài trong thế gian. Chúng ta nhìn thấy thật sống động sự mầu nhiệm về nhân tính và thần tính của Ngài trong khung cảnh này.


Phi-e-rơ và đồng bạn của ông hứa trung thành với Thầy của mình cho đến chết, tuy nhiên họ đã ngủ quên! Họ cần phải cầu nguyện cho chính mình, vì sự nguy hiểm rất gần họ. Và chắc chắn sẽ ý nghĩa biết bao cho Chúa của họ nếu như họ tỉnh thức và cầu nguyện với Ngài. Họ đã thất bại, nhưng Thầy của họ đã thành công.


Chúa bị bắt (Mat 26:47-56).

Chúa Giê-xu biết rằng Giu-đa và những quan quân bắt Ngài đến gần, vì vậy Ngài đánh thức các môn đệ dậy và chuẩn bị cho họ đối diện với những điều sắp xảy ra. Việc bọn lính và những người coi giữ đền thờ cầm gươm và gậy cho thấy Giu-đa thực sự không hiểu Chúa Giê-xu. Giu-đa nghĩ rằng quân lính sẽ phải tìm kiếm Chúa Giê-xu ẩn núp trong vườn và phải đánh nhau với các môn đệ mới bắt Ngài được.

Nhưng Chúa Giê-xu tiến đến và yên lặng nộp mình trong tay họ. Chắc chắn không cần phải có Giu-đa giao nộp Ngài bằng một cái hôn phản bội, vì Chúa Giê-xu nói cho bọn lính biết Ngài là ai.


Thật thảm thương khi thấy Giu-đa xem thường mọi thứ ông ta đụng đến. Tên của ông có nghĩa là sự khen ngợi (Sa 29:35), nhưng ngày hôm nay ai còn dám đặt tên cho con trai mình là Giu-đa? Giu-đa dùng nụ hôn làm vũ khí, chớ không phải là dấu hiệu của sự thương yêu. Vào thời đó, các môn đệ có thông lệ hôn thầy của mình. Nhưng trong trường hợp này, nụ hôn không phải là biểu hiện sự thuận phục hoặc tôn kính. Các động từ trong tiếng Hy-lạp cho thấy Giu-đa hôn Chúa Giê-xu nhiều lần.


Vào thời điểm này, vài môn đệ khác hỏi Chúa, “Thưa Chúa, chúng tôi nên dùng gươm đánh chăng?” Lúc Ngài ở với họ trên phòng cao, Chúa Giê-xu đã phán với họ về gươm (Lu 22:31-38). Chúa Giê-xu đang chuẩn bị cho họ một cách sống khác. Họ cần phải dùng bất cứ phương tiện nào Chúa chu cấp để săn sóc và bảo vệ họ an toàn. Họ sẽ sống giữa thế giới thù địch, và Ngài không luôn luôn thi thố phép lạ để cứu giúp họ.


Vấn đề ở đây là các môn đệ hiểu lầm lời phán dạy của Ngài. Như thường lệ họ hiểu lời Ngài theo nghĩa đen, “Thưa Chúa, có hai thanh gươm đây.” Và Ngài phán với họ rằng, “Ấy là đủ” (Lu 22:38). Phi-e-rơ đã cãi lại lời phán của Chúa Giê-xu, ông phủ nhận và không vâng theo lời của Ngài (lúc ông ngủ gục). Bấy giờ ông hành động trước khi nghe lời phán của Ngài. Với lòng hăng hái bảo vệ Chúa Giê-xu, Phi-e-rơ đã dùng gươm chém đứt lỗ tai của Man-chu. Phi-e-rơ không chờ đợi Chúa phán dạy điều ông phải làm, nhưng (giống như Môi-se ở Ai-cập, (Xu 2:11-15)Phi-e-rơ vội vã tin vào cánh tay mạnh sức của mình. Nếu Chúa Giê-xu không chữa lành lỗ tai của Man-chu, có thể sẽ có đến bốn cây thập tự trên đồi Gô-gô-tha!


Việc các quan coi đền thờ đã không bắt Chúa Giê-xu khi Ngài ở trong đền thờ chứng tỏ rằng có chương trình tể trị của Đức Chúa Trời trên đời sống của Ngài. Những điều này không tình cờ xảy ra, nhưng có chuẩn bị trước. Đó là tất cả phần việc Đức Chúa Trời thực hiện trong chương trình cứu chuộc của Ngài, tuy vậy con người tội lỗi phải chịu trách nhiệm cho việc làm của mình. “Người đó bị nộp theo ý định trước và sự biết trước của Đức Chúa Trời, các ngươi đã mượn tay độc ác mà đóng đinh Người trên thập tự giá và giết đi” (Công 2:23).


Dĩ nhiên họ không có quyền bắt Ngài.

Ngài không phạm luật pháp, không phạm tội ác nào. Họ đối đãi Ngài như một tên trộm cướp - tuy vậy chính Giu- đa là tên trộm cướp! Các môn đệ mạnh mẽ hứa ở với Ngài, đã lìa bỏ Ngài. “Nầy, giờ đến, là khi các ngươi sẽ tản lạc, ai đi đường nấy, và để ta lại một mình nhưng ta không ở một mình, vì Cha ở cùng ta.” (Gi 16:32). Sau đó, ngay cả Cha Ngài cũng lìa bỏ Ngài!


Mỗi chúng ta phải có quyết định: Sẽ dùng gươm để tự vệ hoặc nhận chén đau thương? Tôi sẽ chống cự hoặc thuận phục ý muốn Đức Chúa Trời? Chén chúng ta nhận lấy thường là chén đau khổ nhưng cuối cùng sự đau thương ấy dẫn đến vinh hiển.

Chúng ta không cần phải sợ uống chén, vì Đức Chúa Cha đã dành sẵn đăc biệt cho chúng ta. Ngài biết khả năng nhận lấy chén của chúng ta, và Ngài giao chén ấy theo sự khôn ngoan và lòng thương yêu của Ngài.



 


23. VUA BỊ XỬ ÁN (Mat 26:57-27:26)


Sau khi bị bắt, quân lính giải Chúa Giê-xu đến nhà của An-ne, nguyên là thầy tế lễ thượng phẩm, ông gia của Cai-phe thầy tế lễ thượng phẩm đương niên (Gi 18:3). An-ne, nhà chính trị tài ba, ở một mức độ nào đó ông ta là “cố vấn” trong hội đồng quản trị đền thờ. Kế đó, Chúa Giê-xu bị điệu đến Cai-phe và đến sáng họ giải Ngài đến trường án. Họ nộp Ngài cho tổng trấn Phi-lát và Phi-lát tìm cách giao Ngài cho vua Hê-rốt xét xử (Lu 23:6-12). Nhưng Hê-rốt đã gởi trả Ngài lại cho Phi-lát.


Ma-thi-ơ tập trung chú ý vào bốn người có liên quan trong vụ xét xử Chúa và sự đau đớn của Chúa.


1. Cai-Phe (Mat 26:57-68)

Theo Luật pháp Cựu-ước, thầy tế lễ thượng phẩm phải thi hành chức vụ cho đến khi qua đời. Nhưng khi quân đội La-mã cai trị đất nước Y-sơ-ra-ên, họ đã biến chức vụ tế lễ thượng phẩm thành công việc được bổ nhiệm. Theo cách này chính quyền La-mã có thể nắm chắc trong tay một nhà lãnh đạo giáo hội sẽ hợp tác với chính sách đô hộ của họ. An-ne thi hành chức vụ thầy tế lễ thượng phẩm từ năm thứ 6 SC. cho đến năm 15 SC, và năm con trai của ông cũng như Cai-phe người con rể đã tiếp nối chức vụ của ông. Cai-phe là thầy tế lễ thượng phẩm từ năm 18-36 SC., nhưng An-ne vẫn còn quyền hành đằng sau ngôi vị (Lu 3:2).


Cả An-ne và Cai-phe đều thuộc phái Sa-đu-sê, có nghĩa là họ không tin vào sự sống lại, thế giới thần linh, hoặc năng quyền của bất cứ sách Cựu-ước nào trừ Ngũ Kinh của Môi-Se. Chính gia đình thầy tế lễ thượng phẩm điều hành “việc mua bán trong đền thờ” mà Chúa Giê-xu đã hai lần phá đổ trong thời gian Ngài thi hành chức vụ. Dĩ nhiên, những con người này thật vui mừng khi bắt được kẻ thù của mình. Cai-phe đã tuyên bố rõ ràng ông dự định dâng Chúa Giê-xu làm con sinh tế để cứu cả dân tộc (Gi 11:47-54).


Thầy cả thượng phẩm vội vàng triệu tập Hội Đồng Quốc Gia, gồm những nhà lãnh đạo, các trưởng lão và các thầy dạy luật (Mac 14:53). Trong khi Hội Đồng Quốc Gia tập trung, Cai-phe và những người giúp việc ra sức tìm nhân chứng có thể đưa ra bằng chứng chống lại Chúa Giê-xu. Họ quyết định Chúa Giê-xu có tội, nhưng họ làm ra vẻ đang xử án theo luật pháp.


Vì không tìm được người làm chứng nào nói đúng sự thật họ muốn (tự thân điều này minh chứng Chúa chúng ta vô tội), cho nên các nhà lãnh đạo sắp đặt những người làm chứng dối để buộc tội Chúa Giê-xu. Luật pháp Môi-se nghịch lại những người làm chứng dối (Phuc 19:15-21), nhưng ngay cả những nhà lãnh đạo tôn giáo cũng bóp méo Lời Đức Chúa Trời để đạt được những mục đích vị kỷ của mình.

Có hai lời chứng đã ứng nghiệm theo văn bản của luật pháp. Nhưng việc họ chủ tâm nói dối đã phá vỡ lời văn lẫn tinh thần của luật pháp. Những người làm chứng trích dẫn một lời phán của Chúa Giê-xu đã dạy trong ngày đầu chức vụ của Ngài: “Hãy phá đền thờ này đi, trong ba ngày Ta sẽ dựng lại!” (Gi 2:19). Nói nghịch lại đền thờ là một vấn đề nghiêm trọng về sau Ê-tiên đã chết vì đạo cũng do chính lời buộc tội này (Công 6:12-14; Công 7:45-50).


Khi đối diện với lời cáo buộc này, Chúa Giê-xu làm thinh không nói lời nào. Điều này ứng nghiệm lời tiên tri Es 53:7. Chúa Giê-xu không thể phủ nhận Ngài đã phán như vậy, nhưng Ngài cũng không thể giải thích ý nghĩa thiêng liêng của lời phán ấy cho những người chỉ có trí hiểu thế gian. Qua thái độ đối với kẻ chống nghịch Ngài, Chúa Giê-xu đã nêu một gương cho chúng ta noi theo (IPhi 2:18-23).


Khi Cai-phe thấy những lời chứng dối không kết tội được Chúa Giê-xu, ông tìm mưu kế khác. Ông ta đặt Chúa Giê-xu dưới áp lực của lời thề. Trong thời đại chúng ta việc khai man và thiếu cân nhắc với sự thật cứ diễn ra, khiến chúng ta không thể hiểu đúng tầm mức quan trọng khi người Giu-đa dùng lời thề. Dĩ nhiên điều này dựa theo Luật pháp của họ (Dan 30:2; Xu 20:7; Le 19:12). Cai-phe biết Chúa Giê-xu tuyên bố Ngài là Con Đức Chúa Trời Gi 10:30-33), vì vậy ông buộc Chúa Giê-xu phải thề về lời tuyên bố đó. Thầy tế lễ khôn ngoan này biết Chúa Giê-xu không thể tránh né câu trả lời.


Chúa Giê-xu khẳng định Ngài là Con Đức Chúa Trời. Ngài ứng dụng lời Kinh Thánh trong Thi 110:1 và Da 7:13 vào chính Ngài, cả hai câu Kinh Thánh đều nói về Đấng Mê-si-a. Trong hai lời trích dẫn này, Chúa Giê-xu báo trước Ngài sẽ sống lại, thăng thiên về trời và tái lâm trong vinh quang. Khi phán điều này Ngài có ý định ban ơn cứu rỗi cho những ai tin cậy Ngài nhưng đối với Cai-phe đó là bằng chứng để ông kết tội Chúa.


Không xem xét kỹ các chứng cớ buộc tội, Cai-phe đã tuyên án. Việc Chúa Giê-xu bị ngược đãi sau khi Ngài bị kết án quả thật là hành động phi pháp và vô nhân đạo.Dĩ nhiên, tất cả những việc làm này phơi bày tâm địa độc ác của thầy tế lễ.Đồng thời cũng ứng nghiệm lời tiên tri về Đấng Mê-si-a (Es 50:6).


2. Phi-e-rơ (Mat 26:69-75)

Phi-e-rơ bị mọi người chê trách vì theo Chúa “xa xa” (Mat 26:58) nhưng đó không phải lỗi lầm. Sai phạm chính là do người cứ bám theo Chúa. Phi-e-rơ được lệnh phải đi khỏi chỗ đó! Chúa Giê-xu đã báo trước cho Phi-e-rơ biết ông sẽ chối Ngài. Chúa Giê-xu cũng trích dẫn lời đấng tiên tri Xa 13:7 phán rằng “chiên sẽ tản lạc”.

Cuối cùng Chúa Giê-xu đã dứt khoát truyền lệnh cho các môn đệ không đi theo Ngài: “Hãy để cho những kẻ này đi” (Gi 18:8-9). Nếu Phi-e-rơ đã chịu nghe lời và làm theo, chắc chắn ông không chối Chúa một cách nhục nhã như vậy.


Sứ-đồ Giăng cũng có phần trong sự thất bại này, vì ông đã cùng với Phi-e-rơ theo sau Chúa Giê-xu và cả hai đã vào trong sân nhà thầy tế lễ thượng phẩm (Gi 18:15-16). Chúa Giê-xu đã phán dặn họ phải “tỉnh thức và cầu nguyện kẻo họ sa vào cám dỗ” (Mat 26:41). Nhưng thay vào đó họ đã ngủ gục. Hậu quả họ đã sa vào cám dỗ và Phi-e-rơ vấp ngã.


Hành động chối Chúa của Phi-e-rơ là cao điểm của một chuỗi thất bại. Lần đầu khi Chúa Giê-xu báo cho Phi-e-rơ biết ông sẽ bị quỉ Sa-tan sàng sảy, Phi-e-rơ khẳng định ông có đức tin và khả năng trung thành với Chúa. Vì kiêu ngạo Phi-e- rơ đã không đồng ý với lời phán của Chúa! Thậm chí ông còn tự so sánh mình với các môn đệ khác và mạnh mẽ tuyên bố, dầu mọi người có thể sa ngã, nhưng ông vẫn trung thành.


Phi-e-rơ đứng sưởi ấm bên ngọn lửa của kẻ thù cho thấy ông bị thất bại như thế nào. Phi-e-rơ chối Chúa là điều nhục nhã hơn bao giờ hết vì hai người hỏi ông chính là hai đứa tớ gái. Lần thứ ba do một người đàn ông, một người đang cùng đứng xem, chất vấn ông nhưng Phi-e-rơ lại thất bại. Người đàn ông này có họ hàng với Man-chu mà Phi-e-rơ đã chém đứt tai (Gi 18:26). Vì vậy hành động nông nỗi của Phi-e-rơ cứ ám ảnh ông ngay cả sau khi Chúa Giê-xu đã chữa lành cho Man-chu.


Bản tường thuật của sách Mác cho biết gà sẽ gáy hai lần (Mac 14:30). Sau khi Phi-e-rơ chối Chúa lần thứ ba, thì gà gáy lần thứ hai (Mac 14:72). Điều này có nghĩa tiếng gà gáy thứ nhất là lời cảnh báo cho Phi-e-rơ, đáng lý ra khi nghe gà gáy ông phải lập tức rời khỏi nơi đó. Phi-e-rơ đã thất bại hoàn toàn sau lần chối Chúa thứ ba và tiếng gà gáy thứ hai vang lên.


Tiếng gà gáy nhắc Phi-e-rơ nhớ lại lời phán của Chúa Giê-xu. Nếu Phi-e-rơ nhớ và vâng theo lời dạy của Chúa, chắc chắn ông sẽ không bao giờ chối Thầy của mình. Chính ngay lúc ấy Chúa Giê-xu quay lại nhìn Phi-e-rơ (Lu 22:61), và ánh mắt yêu thương ấy đã làm tấm lòng của vị sứ đồ tan nát. Phi-e-rơ đi ra ngoài khóc lóc cách đắng cay.


Sau khi Ngài sống lại, Chúa Giê-xu gặp riêng Phi-e-rơ và phục hồi chức vụ sứ đồ cho ông (Mac 16:7; ICôr 15:5). Chúa Giê-xu cũng phục chức cho ông cách công khai (Gi 21:15-19). Phi-e-rơ nhận được một số bài học quan trọng qua kinh nghiệm chua xót ấy. Ông cần phải chú ý đến lời dạy của Chúa, thức canh cầu nguyện, và không cậy vào sức riêng mình.


3. Giu-đa (Mat 27:1-10)

Để dân chúng không thể nói cuộc họp được triệu tập vội vàng đêm qua là sai Luật Pháp, Hội đồng Do-thái đã họp lại vào buổi sáng và đọc bản án chính thức kết tội Chúa Giê-xu. Giờ này tất cả mọi người đều có thể tham dự phiên tòa.

Có khả năng Ni-cô-đem và Giô-sép người A-ri-ma-thê không tham dự buổi xử án hoặc từ chối không đồng tình với bản án (Gi 19:38-42). Nhưng người Giu-đa không có quyền thi hành án tử hình (Gi 18:31), vì vậy Chúa Giê-xu bị giải đến Phi-lát, quan toàn quyền La Mã. Chỉ có Phi-lát mới có quyền thi hành án tử hình phạm nhân.


Vào lúc này, Giu-đa quay lại nơi xử án. Chứng kiến phiên tòa xét xử Chúa và nghe đọc phán quyết của tòa án, Giu-đa nhận ra rằng Chúa Giê-xu bị kết án tử hình.Giu-đa cảm thấy tiếc nuối và ân hận cho hành động của mình. Từ ngữ Hy-lạp đã dịch là “ăn năn” ở trong Mat 27:3 cho thấy không phải do buồn rầu vì tội lỗi dẫn đến sự biến đổi trong ý định và hành vi, nhưng đó là sự hối hận vì việc đã làm, sự tiếc nuối dẫn đến tuyệt vọng. Phi-e-rơ thực sự đã ăn năn, và Chúa Giê-xu rịt lành cho ông. Nhưng Giu-đa không ăn năn, và điều này khiến ông treo cổ tự tử.


Giu-đa đã bán Chúa Giê-xu với giá của một tên nô lệ (Xu 21:32). Trong cơn tuyệt vọng, ông ném trả bạc vào đền thờ và bỏ đi. Luật Pháp Môi-se không cho phép sử dụng loại tiền dơ bẩn này vào công việc đền thờ (Phu 23:18). Các nhà lãnh đạo Do-thái cẩn thận tuân thủ Luật pháp trong khi đó họ đang phạm tội hủy hoại luật pháp. Họ dùng tiền ấy mua “đám ruộng của thợ gốm” dùng làm nơi chôn cất khách lạ.


Công 1:18-19 cho chúng ta hiểu biết thêm về sự kiện này. Giu-đa tự bỏ đi, bị ám ảnh bởi tội ác khủng khiếp của mình, và cuối cùng đã thắt cổ tự tử. Rõ ràng sau mấy ngày người ta mới phát hiện thi thể của Giu-đa, vì nó đã trương lên và ruột gan đổ ra ngoài. Có lẽ cành cây nơi Giu-đa treo cổ bị gãy gây nên sự cố như vậy.


Công 1:18 không nói Giu-đa tự tử trong đám ruộng các thầy tế lễ đã mua bởi đồng tiền bán Chúa. Chắc chắn việc Giu-đa treo cổ sẽ làm ô uế đám đất và các thầy tế lễ sẽ chẳng bao giờ mua đám ruộng ấy. Mat 27:7 chép rằng các thầy tế lễ mua một đám ruộng Công 1:18 chép rằng tiền thưởng của Giu-đa đã được dùng để mua đám ruộng. Giu-đa không thể mua đám ruộng với số tiền ấy vì ông ta đã giao trả lại cho các thầy tế lễ. Các thầy tế lễ gọi nghĩa địa ấy là “ruộng huyết” vì người ta đã mua nó bằng “giá của huyết”. Việc Giu-đa tự sát làm cho tên gọi đám ruộng thêm nhiều máu, vì chính ông ta là người đóng tiền.


Nhưng, tại sao Ma-thi-ơ liên hệ sự kiện này với lời của đấng tiên tri Giê-rê- mi trong lúc lời tiên tri lại được chép trong Xa 11:12-13? Một giải pháp khả thi đó là tiên tri Giê-rê-mi đã nói lời tiên tri này (chú ý Mat 27:9) và nó trở thành một phần trong lời truyền khẩu của người Giu-đa. Về sau lời truyền khẩu này đã được tiên tri Xa- cha-ri chép lại. Chắc chắn tiên tri Giê-rê-mi có liên quan đến vụ mua một đám ruộng (Gie 32:6), và cũng với đám ruộng của nhà thợ gốm (Mat 18:1), và là nơi chôn cất người chết (Mat 19:1-12). Có lẽ Ma-thi-ơ đang liên hệ đến các sự kiện phổ quát như là làm bối cảnh cho lời tiên tri do Xa-cha-ri chép lại.


4. Phi-lát (Mat 27:11-26)

Bôn-xơ Phi-lát là viên toàn quyền thứ sáu do chính quyền La-mã cử đến cai trị xứ Giu-đê. Ông không được người Giu-đa thích vì đã nhiều lần cố tình vi phạm Luật pháp Giu-đa và khích động dân chúng. Ông ta sẵn sàng giết người để hoàn thành các mục tiêu của mình (Lu 13:1). Địa vị của Phi-lát không ổn định luôn luôn bởi vì quan hệ của ông với người Y-sơ-ra-ên trở nên xấu đi và vì chính sách thay đổi của ngừơi La-mã đối với người Giu-đa.


Các nhà lãnh đạo Do-thái tố cáo Chúa Giê-xu phạm ba tội.

Họ tuyên bố rằng Ngài đã dẫn dắt dân tộc đi sai lạc, ngăn cấm việc nộp thuế, và tự xưng là Vua (Lu 23:2). Đây là những lời buộc tội thuộc về chính trị, loại tội phạm mà quan cai trị La mã có thể xử lý. Phi-lát tập trung vào tội thứ ba - tội Chúa Giê-xu đã tuyên bố Ngài là Vua - bởi vì tội này đe dọa nền an ninh của chính quyền La-mã.Nếu giải quyết được “cuộc dấy loạn” này, Phi-lát có thể làm hài lòng người Giu-đa và đồng thời làm cho Hoàng Đế La-mã nể phục.


Phi-lát hỏi, “Chính ngươi là Vua dân Giu-đa phải không?”. Chúa Giê-xu cho ông ta câu trả lời rõ ràng: “Thật như lời ngươi nói”. Tuy nhiên, lúc ấy Chúa Giê-xu hỏi Phi-lát dựa theo câu hỏi của ông ta (Gi 18:34-37). Có phải Phi-lát đang nghĩ về “vương quyền” trong cái nhìn của người La-mã chăng? Nếu vậy, Chúa Giê-xu không phải là vị vua ấy. Chúa Giê-xu giải thích cho viên toàn quyền hiểu rằng vương quốc của Ngài không thuộc về thế gian này, nước Ngài không cần có quân đội, những kẻ theo Ngài không đánh trận. Hơn nữa, nước Ngài là triều đại của lẽ thật.


Cuộc đối thoại khiến Phi-lát tin rằng Chúa Giê-xu không phải là một người bạo loạn nguy hiểm. Phi-lát quyết định, “Ta chẳng thấy người có tội lỗi gì cả”.

Nhưng các quan cai trị người Giu-đa đòi Phi-lát kết tội Chúa Giê-xu. Họ nhắc lại lời cáo buộc của mình và khi mô tả đầy đủ chi tiết về những lời cáo giác của họ, họ nói rằng Chúa Giê-xu là người Ga-li-lê. Khi Phi-lát nghe điều này, ông thấy có cách thoát khỏi tình trạng khó xử của mình, bởi vì xứ Ga-li-lê thuộc quyền cai trị của Vua Hê-rốt. Có thể Hê-rốt không hài lòng về Phi-lát vì ông đã giết các công dân của Hê-rốt (Lu 13:1). Chắc chắn Phi-lát nghĩ đây là cơ hội để ông làm hòa với Hê-rốt.


Ma-thi-ơ không ghi lại cuộc xử án của vua Hê-rốt Ạc-ríp-ba (Lu 23:6-13).

Hê-rốt là người đã giết Giăng Báp-tít và dọa giết Chúa Giê-xu (Lu 13:31-32). Chúa Giê-xu yên lặng trước mặt vua Hê-rốt, vì Hê-rốt đã bịt tai trước tiếng nói của Đức Chúa Trời. Tất cả những gì vua có thể làm là nhạo báng Chúa Giê-xu và chuyển trả Ngài lại cho Phi-lát. Nếu Phi-lát hi vọng trút bỏ được rắc rối, ắt ông ta đã thất vọng. Tuy nhiên, thủ đoạn này đã giải quyết được mối bất hòa giữa hai nhà cai trị.


Phi-lát muốn giải quyết rắc rối nhưng không có quyết định cụ thể nào về Chúa Giê-xu. Là một quan toàn quyền La-mã, ông ta thề phải giữ đúng kỷ cương phép nước. Nhưng là nhà chính trị, ông ta biết phải chìu theo ý muốn của dân chúng. Phi-lát hết đưa ra quyết định này lại dẫn đến quyết định khác, cho đến khi ông cứ lẩn quẩn trong sự tránh né. Ông chất vấn Chúa Giê-xu thêm nữa, nhưng Ngài không trả lời.


Phi-lát bày ra một mưu kế khác: Ông sẽ làm theo truyền thống ân xá tù nhân. Thay vì chọn một tù nhân vô danh tiểu tốt nào đó, Phi-lát cố tình chọn tên tù phạm nguy hiểm nhất ông đang giam giữ đó là Ba-na-ba. Ba-na-ba là tên trộm cướp (Gi 18:40) và là gã giết người (Mac 15:7). Phi-lát lập luận rằng đám đông sẽ từ chối Ba-na-ba và đòi tha cho Chúa Giê-xu, vì có ai muốn một tên giết người và trộm cướp lộng hành trong xã hội?


Nhưng Phi-lát đã tính sai. 

Mặc dầu Chúa Giê-xu săn sóc dân chúng qua hành động chữa lành người bệnh và kêu kẻ chết sống lại, nhưng dân chúng vẫn từ chối Ngài và chọn xin tha cho tên giết người. Phi-lát nhận ra rằng cuộc náo loạn trong dân chúng đang tiếp tục nổi lên, và ông không thể để cho điều này xảy ra. Đây chính là điểm các nhà cai trị muốn tránh - cuộc náo loạn trong kỳ lễ Vượt Qua (Mat 26:5) - họ tự sắp đặt để buộc Phi-lát phải hành động. Viên toàn quyền đã hành động hoàn toàn ngoài ý muốn cá nhân và không đặt trên nền tảng chính trực. Ông ta trả tự do cho người có tội và kết án người vô tội, Con người vô tội đó là Con Đức Chúa Trời.


Phi-lát thực hiện ba bước nhằm tự thanh minh ông không có liên can gì đến vụ án.

-Trước hết, ông rửa tay và tuyên bố ông không có tội trong việc kết án này.

-Thứ hai, ông nói rằng Chúa Giê-xu là người công chính không đáng chết.

-Thứ ba, ông cho phạt Chúa Giê-xu rồi thả Ngài, nhưng các nhà lãnh đạo tôn giáo không chấp nhận giải pháp dung hoà nào cả.

-Cuối cùng, họ dùng một đòn giáng phủ đầu Phi-lát khiến ông không còn cách nào tự vệ được: “Nếu quan tha người này, thì quan không phải là trung thần của Sê-sa vì hễ ai tự xưng là Vua, ấy là người xướng lên nghịch cùng Sê-sa vậy!” (Gi 19:12). Đến lúc này, Phi-lát chịu thúc thủ, người sai đánh đòn Chúa Giê-xu và giao Ngài cho chúng đóng đinh trên thập tự giá.


Vì người Giu-đa không thể hành hình tội phạm, cho nên họ cần có sự trợ giúp của nhà cầm quyền La-mã và Phi-lát đã phát lệnh. Dĩ nhiên, tất cả điều này xảy ra để ứng nghiệm lời tiên tri. Dân Giu-đa không đóng đinh tử tội họ xử tử phạm nhân bằng cách ném đá.

Thi 22:1-30 do một người Giu-đa viết về cảnh đóng đinh thật sống động. “Chúng nó đâm lủng tay và chân tôi” (Thi 22:16). Chúa Giê-xu đã bị rủa sả vì cớ chúng ta, vì ”kẻ nào bị treo ắt bị Đức Chúa Trời rủa sả” (Phuc 21:23; Ga 3:13). Nhưng Đức Chúa Trời vẫn hành dộng để làm trọn mục đích thiên thượng của Ngài.


Phi-lát biết đều đúng, nhưng ông không làm. Ông “muốn làm đẹp lòng dân chúng” (Mac 15:15). Giu-đa đã đầu hàng ma quỉ mà phạm tội trọng trước mặt Đức Chúa Trời (Gi 13:2,27) Phi-e-rơ không chống lại được cám dỗ của xác thịt khi ông chối Chúa nhưng Phi-lát nhượng bộ thế gian và nghe theo yêu cầu của dân chúng. Phi-lát tìm kiếm con đường dễ dãi, nhưng không tìm kiếm lẽ công bình. Phi-lát được lịch sử ghi lại là con người kết án Chúa Giê-xu.



 


24. VUA CHỊU KHỔ VÀ CHẾT (Mat 27:27-66)


Ma-thi-ơ và các tác giả Phúc-Âm khác ghi lại các sự kiện lịch sử về sự đau khổ và chết của Chúa chúng ta. Còn có các tác giả thơ tín Tân-ước giải thích ý nghĩa thần học của sự kiện này. Lịch sử chép rằng “Đấng Christ đã chết”, nhưng thần học giải thích, “Đấng Christ chết vì tội chúng ta...” (ICôr 15:3). Chúng ta hãy xem xét những nỗi đau đớn khác nhau mà Chúa chúng ta phải mang lấy trong thời gian ấy.


1. Ngài bị quân lính nhạo báng (Mat 27:27-30)

Bản án chính thức buộc tội Chúa Giê-xu tuyên bố Ngài là Vua dân Giu-đa (Mat 27:37). Quân lính lợi dụng cơ hội kết tội này để nhục mạ vua. Đó là cách đối xử độc ác với tù nhân vô tội sau khi đã bị đánh đòn. Nhưng Phi-lát chẳng làm gì để ngăn chúng lại. Ông ta vui vì tù nhân đã thoát khỏi tay mình.


-Trước hết bọn lính lột áo choàng Ngài ra và mặc cho Ngài một cái “áo choàng của lính”. Bạn hãy tưởng tượng Hoàng Tử Bình An (Es 9:6) lại mặc chiếc áo lính bị rách tả tơi! Ma-thi-ơ miêu tả chiếc áo choàng có màu đỏ tươi, trong khi Mác dùng từ màu tía. Không có gì trái ngược trong hai cách giải thích “đỏ điều” là cách miêu tả hay nhất cho chiếc áo đã bị phai màu. Bạn thử nghĩ Chúa chúng ta cảm thấy thế nào khi bọn lính choàng chiếc áo này lên thân thể rướm máu của Ngài.


-Vua phải có vương miện, vì vậy quân lính đan một cái mão bằng gai và đội lên đầu Ngài. Họ trao cho Ngài một cây sậy làm vương trượng, và rồi quỳ xuống trước mặt Ngài và chế giễu rằng, “Lạy Vua dân Giu-đa!” Họ say sưa nhạo báng mà không nhận ra rằng Đấng họ đang chế giễu ấy lại là Vua các Vua và Chúa các Chúa.


Kế đến họ làm một việc mà không có thần dân nào đối đãi với vua của mình cả: Họ nhổ trên Ngài và lấy cây sậy đánh trên đầu Ngài. Bọn lính thay nhau nhục mạ Ngài, một số quỳ trước mặt Ngài, số khác đánh trên đầu Ngài hoặc khạc nhổ vào mặt Chúa (Es 50:6). Chúa Giê-xu chịu mọi nhục nhã đau đớn không một lời than van hoặc chống lại (IPhi 2:18-23). Sự thuận phục của Ngài không phải là dấu hiệu của sự yếu đuối nhưng đó là dấu hiệu của sức mạnh.


2. Ngài bị đóng đinh (Mat 27:31-38)

Đóng đinh là hình phạt đau đớn và khổ nhục nhất dùng để xử tử một phạm nhân. Chúa Giê-xu không chỉ chịu chết Ngài chết ”... thậm chí chết trên cây thập tự” (Phil 2:8). Thông thường công dân có quốc tịch La-mã không bị đóng đinh trên thập tự giá. Thực ra, người ta không bao giờ nhắc đến hình ảnh thập tự giá trong xã hội có học thức, vì vậy mọi người đều khinh bỉ án tử hình này.


Quân lính dẫn Chúa Giê-xu ra ngoài thành phố đến nơi hành hình (He 13:12-13). Phạm nhân buộc phải mang cây thập tự của mình (hoặc ít nhất phải vác cái thanh ngang), và phải đeo một tấm bảng trên cổ để thông báo cho mọi người biết về tội ác của mình. Sau đó tấm bảng được treo phía trên đầu của tội nhân trên thập tự giá để mọi người đều thấy.


Trong khi bản tường thuật không nói rõ nhưng nhưng dường như Chúa Giê-xu không thể vác thập tự, và điều này làm đám đông đi chậm lại. Khi nhớ lại Ngài đã thức suốt đêm, bị quân lính đánh đòn, và sỉ nhục, chúng ta có thể kết luận rằng Ngài bị kiệt sức. Chúa Giê-xu bắt đầu vác thập tự giá mình (Gi 19:17). Mac 15:22 viết, “Bọn lính đem Chúa Giê-xu lên đồi Gô-gô-tha” (dịch theo nghĩa đen). Điều này cho thấy bọn lính phải giúp đỡ Ngài trong đoàn diễu hành, vì chữ “đem” có nghĩa là “mang, vác”.


Cuộc hành hình này được thực hiện gấp rút. Người ta sắp tổ chức lễ Vượt Qua, và các nhà lãnh đạo Do-thái không muốn ngày lễ thánh của họ bị ảnh hưởng bởi các thây còn treo trên thập tự giá (Gi 19:31). Để đẩy nhanh quá trình hành hình, bọn lính chọn một du khách viếng thăm Giê-ru-sa-lem, đó là Si-môn người Sy-ren. Ông ta đã đến Giê-ru-sa-lem dự lễ Vượt Qua, và bây giờ ông ta chịu nhục vì bị buộc phải vác thập tự của một tội phạm vô danh! Quân lính La-mã có quyền điều động mọi người (Mat 5:41).


Mác nói đến Si-môn như thể khi đọc dến sách Mác người ta sẽ nhận ra ngay ông ấy: “cha A-léc-xan-đơ và Ru-phu” (Mac 15:21). Hình như hai người con này là những thành viên có tiếng tăm trong Hội thánh. Có thể qua kinh nghiệm nhục nhã này đã đem đến cho Si-môn và gia đình của ông cơ hội gặp Chúa và trở thành Cơ-đốc nhân. Si-môn đến Giê-ru-sa-lem để dâng chiên con trong lễ Vượt Qua và ông đã gặp Chiên Con của Đức Chúa Trời Đấng hy sinh thay cho ông.


Theo thông lệ người ta cho các phạm nhân sắp bị đóng đinh uống rượu thuốc để xoa dịu cơn đau. Nhưng Chúa Giê-xu không chịu uống Ngài muốn tỉnh táo trong khi làm theo ý chỉ của Đức Chúa Trời. Hơn nữa, đều này ứng nghiệm lời Kinh Thánh trong Thi 69:21.


Theo lệ thường bọn lính chia nhau của cướp được tại buổi hành hình. Điều này ứng nghiệm lời tiên tri trong Thi 22:18. Sau khi bắt thăm chia áo dài của Ngài xong (Gi 19:23-25), bọn lính ngồi xuống và “canh giữ Ngài” (Mat 27:36).

Dù sao, mọi người đều biết Chúa Giê-xu này là một người làm phép lạ. Không ai biết có bao nhiêu người theo Ngài, và có lẽ lúc ấy họ đang chuẩn bị để giải cứu Ngài. Trong tập thể môn-đệ của Ngài có một người theo đảng Xê-lốt (Mat 10:4) - “Si-môn đảng viên Xê-lốt”), đó là một nhóm người cuồng tín không từ một thủ đoạn nào khi họ nổi loạn chống lại chính quyền La-mã.


Kết hợp các bản ghi chép trong các sách Phúc-Âm, chúng ta đạt được lời luận tội đầy đủ được treo phía trên đầu Ngài: “Đây là Giê-xu người Na-xa-rét Vua dân Giu-Đa.” 

Các nhà lãnh đạo Do-thái không đồng ý những gì Phi-lát cho viết, nhưng chỉ có lần này Phi-lát không thay đổi ý định (Gi 19:21-22). Về một ý nghĩa nào đó, tước hiệu này chứng tỏ đó là “một truyền đạo đơn” đầu tiên từng được viết ra. Nó thông báo cho một trong hai tên cướp cùng bị đóng đinh với Ngài biết rằng Ngài là Đấng Cứu thế và là Vua. Tên cướp ấy mạnh dạn tin vào sứ điệp ngắn ngủi này và cầu xin Chúa Giê-xu cứu mình!


3. Người Giu-đa nhạo báng Ngài (Mat 27:39-44)

Chúa Giê-xu không bị xử tội trong một tòa nhà yên tĩnh, cách xa sự ồn ào và nhộn nhịp của thành phố. Ngài bị hành hình nơi một xa lộ có đông người qua lại, vào một ngày có thể có hàng trăm người đi lại. Việc bản cáo trạng của Ngài được viết theo ba thứ tiếng - Hy-lạp, Hê-bơ-rơ, và La-tinh - cho thấy có một đám đông người thuộc mọi chủng tộc trên thế giới đã đi ngang đồi Gô-gô-tha, “nơi được gọi là cái Sọ”.

Điều này tự thân nó cũng là sự sỉ nhục vì khách qua đường có thể nhìn thấy và không tiếc lời nhiếc móc nạn nhân. Hơn nữa, đều này đã được tiên tri trong Thi 22:6-8.


Đám đông thường dân chê cười khinh bỉ Ngài chưa đủ, các nhà lãnh đạo Giu-đa cũng góp lời mắng nhiếc Ngài. Họ nhắc lại lời Ngài phán hứa sẽ xây lại đền thờ trong ba ngày (Gi 2:19 Mat 26:61). “Nếu ngươi có thể làm được đều đó, Ngươi hãy xuống khỏi cây thập tự và chứng tỏ Ngươi là Con Dức Chúa Trời!”

Thực ra, chính việc Ngài ở trên thập tự giá minh chứng Ngài là Con của Cha Thiên Thượng.


Các bậc lãnh đạo tôn giáo nhạo báng lời Ngài tuyên bố là Đấng Cứu thế. “Nó đã cứu kẻ khác mà cứu mình không được” (Mat 27:42). Ngài đã cứu người khác. Nhưng nếu Ngài tự cứu mình, thì chẳng có ai được cứu cả! Ngài không đến để cứu sự sống mình, nhưng Ngài đã đến phó mình làm giá chuộc nhiều người.


4. Đức Chúa Cha từ bỏ Ngài (Mat 27:45-56)

Chúa Giê-xu bị đóng đinh vào lúc chín giờ sáng và Ngài bị treo dưới nắng từ chín giờ cho đến trưa. Nhưng đến ban trưa một màn đêm kỳ lạ bao trùm khắp đất. Đây không phải là trận bão cát hoặc hiện tượng nhật thực, như một số nhà văn tự do gợi ý.

Đó là sự tối tăm từ trên trời kéo dài đến ba tiếng đồng hồ. Như thể tất cả tinh tú đang cảm thương Đấng Tạo Hóa. Trước ngày lễ Vượt Qua, có ba ngày tối tăm tại xứ Ai-cập Xu (Mat 10:21-23) và có ba giờ tối tăm xảy ra trước khi Chiên Con của Đức Chúa Trời chịu chết đền tội cho nhân loại.


Chúa Giê-xu đã phán ít nhất ba lần trước khi sự tối tăm này xảy ra. Trong khi chúng đóng đinh Ngài, Ngài liên tục cầu nguyện, “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết mình làm đều gì” (Lu 23:34). Ngài đã phán với tên trộm cướp ăn năn và bảo đảm với anh ta một chỗ ở trong thiên đàng (Lu 23:39-43). Ngài cũng giao mẹ của Ngài cho vị môn đệ Ngài yêu, đó là Giăng lo chăm sóc bà, (Gi 19: 18-27). Nhưng khi sự tối tăm xảy ra, Chúa Giê-xu yên lặng trong suốt ba giờ.


Sau ba giờ đó, màn đêm tan đi. Chúa Giê-xu kêu lên, “Đức Chúa Trời tôi ơi, Đức Chúa Trời tôi ơi, sao Ngài lìa bỏ tôi?” Đây là lời trích dẫn trực tiếp trong Thi 22:1. Chính trong suốt thời gian tối tăm đó Chúa Giê-xu đã gánh chịu tội lỗi vì chúng ta (IICôr 5:21).

Ngài đã bị Đức Chúa Cha từ bỏ! Sự tối tăm là biểu tượng của cơn đoán phạt Ngài gánh chịu, khi Ngài “đã nên sự rủa sả” vì chúng ta (Ga 3:13). Thi 22:2 nói lên một khoảng thời gian sáng và khoảng thời gian tối tăm Thi 22:3 nhấn mạnh sự thánh khiết của Đức Chúa Trời. Làm thế nào một Đức Chúa Trời thánh khiết lại chấp nhận Con Ngài trở nên tội lỗi được?


Chúa Giê-xu kêu lên những từ này bằng tiếng Hê-bơ-rơ, và những người đứng đó không hiểu Ngài nói gì. Họ nghĩ rằng Ngài đang gọi Ê-li đến cứu Ngài. Nếu họ chịu lắng nghe kỹ và tham khảo trong Thi 22:1-30, ắt sẽ hiểu lời phán của Ngài.


Liên tiếp rất nhanh Chúa phán ba lần nữa. Ngài phán, “Ta khát” (Gi 19:28) đều này ứng nghiệm (Thi 69:21). Một người thấy thương Ngài bèn lấy bông đá tẩm rượu chua cột vào đầu cây gậy đưa cho Chúa nhấm. Những kẻ khác thì đứng đợi xem Ê-li có đến cứu Ngài không.


Sau đó Chúa Giê-xu kêu lớn tiếng, “Mọi việc đã được trọn! Hỡi Cha, tôi giao linh hồn lại trong tay Cha!” Sự việc Chúa kêu lớn tiếng cho thấy Ngài hoàn toàn tỉnh táo. Kế đó Ngài trút linh hồn và qua đời.


Mặc dầu Ngài “nhơn sự yếu đuối đã bị đóng đinh” (IICôr 13:4), nhưng Ngài đã thực hành quyền năng lạ lùng khi Ngài chết. Ba phép lạ xảy ra đồng thời: Bức màn trong đền thờ bị xé ra làm hai từ trên xuống dưới cơn động đất làm mồ mả mở toang một số các thánh đã qua đời được sống lại. Bức màn trong đền thờ bị xé rách là hình bóng dạy dỗ một chân lý kỳ diệu về con đường được mở ra để con người có thể đến cùng Đức Chúa Trời (He 10:14-26). Giờ đây không cần có đền thờ, thầy tế lễ, bàn thờ, hoặc của tế lễ nào nữa. Chúa Giê-xu đã hoàn tất công tác cứu rỗi trên thập tự giá.


Cơn động đất nhắc chúng ta nhớ những gì đã xảy ra tại Núi Si-na-i khi Đức Chúa Trời trao Luật pháp của Ngài cho lãnh tụ Môi-se (Xu 19:16). Trận động đất tại đồi Gô-gô-tha báo hiệu cho chúng ta biết rằng mọi đòi hỏi của Luật pháp đã được thỏa mãn và sự rủa sả của Luật pháp được cất bỏ vĩnh viễn (He 12:18-24).

Bức màn bị xé làm đôi chứng tỏ Ngài đã chinh phục tội lỗi trận động đất minh chứng Ngài chinh phục và làm trọn Luật pháp và sự sống lại bày tỏ Ngài đắc thắng cõi chết.


Chúng ta không được Kinh Thánh cho biết các thánh được sống lại này là ai họ chỉ là những Cơ-đốc nhân đã chết. Bản Kinh Thánh King James cho rằng họ không ra khỏi phần mộ cho đến sau khi Chúa Giê-xu sống lại Bản Kinh Thánh New America Standard Bible đồng ý với quan điểm này. Thật khó tin rằng họ đã được sống lại vào chiều thứ sáu nhưng còn lưu lại trong phần mộ cho đến ngày Chúa nhật. Bản Kinh Thánh NIV cho rằng các thánh này được sống lại ngay tức khắc và ra khỏi phần mộ của họ, nhưng họ không viếng thăm Giê-ru-sa-lem cho đến sau khi Chúa Giê-xu từ kẻ chết sống lại. Không chắc có nhiều người Giu-đa có mặt tại phần mộ trong ngày lễ Vượt Qua, bởi vì họ sợ bị ô uế bởi thây người chết. Có thể sự sống lại của các thánh đồ đã xảy ra vào lúc ấy mà không người nào phát hiện ra.


Kết quả của những sự việc này là lời làm chứng của viên thầy đội và những người chứng kiến khác. “Quả thật người này là Con Đức Chúa Trời”. Điều này có bày tỏ đức tin cứu chuộc không? Không hẳn là thế. Nhưng chắc chắn cho thấy nhiều tấm lòng rộng mở cho chân lý.


Giăng là môn đệ duy nhất có mặt tại chân thập tự giá lúc Chúa Giê-xu tắt hơi (Gi 19:35). Nhưng có nhiều phụ nữ đang đứng nhìn ở cách xa, chắc chắn đó là những người đã giúp đỡ Ngài trong thời gian Ngài thi hành chức vụ (Lu 8:2).

Ba người phụ nữ có tên là: Ma-ri Ma-đơ-len, người đã được đuổi khỏi bảy quỷ (Lu 8:2) Ma-ri mẹ của Gia-cơ và Giô-sép, bà cũng là người có mặt tại mộ trống trong buổi sáng phục sinh (Mat 28:1 Mac 16:1) và Sa-lô-mê, mẹ của Gia-cơ và Giăng.Sa-lô-mê đã cầu xin Chúa Giê-xu ngôi cao trong Nước thiên đàng cho các con trai của bà. Chúng ta thắc mắc tự hỏi bà Sa-lô-mê cảm thấy thế nào khi thấy Chúa Giê-xu bị treo trên thập tự giá.


5. Mộ Ngài được quân lính canh giữ (Mat 27:57-66)

Nếu không có sự can thiệp của Giô-sép người A-ri-ma-thê và Ni-cô-đem (Gi 19:38), thì thi thể của Chúa Giê-xu có thể không được chôn cất tử tế. Giô-sép và Ni-cô-đem đã đến tin nhận Chúa Giê-xu, dầu họ không công khai chứng tỏ đức tin của mình.

Có thể nói Đức Chúa Trời đã giấu kín họ để họ có thể lo cho thi thể của Chúa Giê-xu. Vì là một người giàu có, ông đã chuẩn bị một ngôi mộ mới, vì vậy Giô-sép đã làm ứng nghiệm lời tiên tri trong Es 53:9 - “Ngài bị chôn như một tử tội nhưng lại chôn trong mộ người giàu” (BDY).


Không chắc rằng Giô-sép đã chuẩn bị ngôi mộ đó cho chính ông. Ông là một người giàu có và chắc chắn ông không muốn mình được an táng gần nơi hành hình. Ông chuẩn bị ngôi mộ đó cho Chúa Giê-xu, và ông chọn địa điểm gần đồi Gô-gô-tha để ông và Ni-cô-đem có thể an táng thi thể của Đấng Christ cách nhanh chóng. Có thể Giô-sép và Ni-cô-đem đã ở trong vườn chờ đợi đến khi Chúa Giê-xu tắt hơi. Lúc họ đem Chúa Giê-xu xuống khỏi thập tự, họ đã bị ô uế và không thể nào dự lễ Vượt Qua. Nhưng điều này có ảnh hưởng gì? Họ đã tìm thấy Chiên Con của Đức Chúa Trời!


Tương phản với lòng yêu thương chăm sóc của các bạn Chúa Giê-xu dành cho Ngài, chúng ta lưu ý đến mưu mô và thủ đoạn của các nhà lãnh đạo Do-thái. Các môn đệ không nhớ lời Chúa Giê-xu phán hứa ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại, nhưng kẻ thù của Ngài nhớ điều ấy. Phi-lát cho phép các bậc lãnh đạo giáo hội cho quân lính canh gác nơi chôn xác Chúa. Việc canh gác này được chính quyền La-mã đóng ấn niêm phong tảng đá chặn cửa mộ.

Tất cả mọi việc tùy thuộc Đức Chúa Trời, vì bây giờ không ai - bạn hay thù - có thể đánh cắp xác Chúa được. Không nhận thấy điều đó nhưng các nhà lãnh đạo giáo hội và chính quyền La-mã đã hợp tác nhau để chứng thực cho sự sống lại của Chúa Giê-xu Christ.



 


25. NHÀ VUA TOÀN THẮNG (Mat 28:1-20)


Nếu có bất cứ điều gì chứng minh cho vương quyền của Chúa Giê-xu Christ, thì đó là sự sống lại của Ngài. Chương cuối của sách Ma-thi-ơ tường thuật về sự đắc thắng của Chúa Giê-xu Christ. Một sự kiện hồi hộp mà các Cơ-đốc nhân ngày nay cùng có phần trong chiến thắng ấy.

Hãy chú ý các giai đoạn khác nhau trong kinh nghiệm của Cơ-đốc nhân về sự sống lại của Ngài.


1. Họ nghĩ rằng Ngài đã chết (Mat 28:1)

Những người đàn bà đã nấn ná tại thập tự giá đến thăm mộ vào sáng sớm sau ngày Sa-bát, họ mang thêm dầu thơm để xức xác Chúa. Các bà ấy nghĩ rằng Ngài chết.Thực ra họ băn khoăn không biết làm thế nào lăn được hòn đá lấp cửa mộ (Mac 16:3). Điều đáng lưu ý là họ không tin vào sự sống lại của Chúa như Ngài đã phán dạy họ nhiều lần (Mat 16:21; Mat 17:23; Mat 20:19; Mat 26:32).


Chúng ta đừng bao giờ xem nhẹ tầm quan trọng của sự sống lại của Chúa Giê-xu Christ. Thế giới tin rằng Chúa Giê-xu đã chết, nhưng họ không tin Ngài đã từ kẻ chết sống lại. Sứ điệp của Phi-e-rơ trong ngày lễ Ngũ Tuần nhấn mạnh đến sự sống lại. Thực ra, sự sống lại được đề cập suốt cả sách Công-vụ các sứ-đồ. Ý nghĩa của sự Phục Sinh là gì?


Sự phục sinh minh chứng Chúa Giê-xu là Con Đức Chúa Trời. Chúa Giê-xu phán rằng Ngài có quyền giao mạng sống Ngài và cũng có quyền lấy lại (Gi 10:17-18).


Sự phục sinh xác nhận chân lý của Kinh Thánh. Cả trong Kinh Thánh Cựu-ước và lời giảng dạy của Chúa Giê-xu, sự sống lại của Ngài được mô tả rõ ràng. (Thi 16:10; Thi 110:1). Nếu Chúa Giê-xu không sống lại bước ra khỏi phần mộ, thì những lời Kinh Thánh này sẽ không thật.


Sự phục sinh bảo đảm cho chúng ta sự sống lại trong tương lai. Vì Chúa Giê-xu đã chết và sống lại, cho nên một ngày kia chúng ta sẽ sống lại giống như Ngài ITe 4:13-18). Thực ra, toàn bộ kết cấu đức tin Cơ-đốc giáo đặt nền tảng trên sự Phục Sinh. Nếu gạt bỏ sự Phục Sinh của Chúa Giê-xu Christ chúng ta không còn có hy vọng gì.


Sự phục sinh là bằng chứng của sự đoán xét trong tương lai. “Vì Ngài đã chỉ định một ngày, khi Ngài sẽ lấy sự công bình đoán xét thế gian, bởi Người Ngài đã lập, và Đức Chúa Trời đã khiến Người từ kẻ chêt sống lại, để làm chứng chắc về đều đó cho thiên hạ...” Công 17:31).


Sự phục sinh là nền tảng cho chức tế lễ trên trời của Đấng Christ. Vì Ngài sống bằng quyền năng của sự sống đời đời, cho nên Ngài có thể cứu chúng ta “cách toàn vẹn” He 7:23-28). Ngài sống để làm Đấng Trung bảo cho chúng ta.


Sự phục sinh ban năng lực cho nếp sống Cơ-đốc. Chúng ta không thể nào sống cho Đức Chúa Trời bởi sức riêng của chúng ta. Chỉ khi quyền năng sống lại của Ngài hành động trong và qua chúng ta thì chúng ta mới có thể làm theo ý chỉ của Ngài và làm vinh danh Ngài.


Sự phục sinh bảo đảm cho chúng ta cơ nghiệp đời đời trong tương lai. Vì chúng ta có hy vọng sống, nên chúng ta có thể kinh nghiệm nếp sống đầy hy vọng. Một hy vọng chết ngày càng yếu dần trước khi chết hẳn. Nhưng bởi Chúa Giê-xu Christ hiện đang sống, cho nên chúng ta có một tương lai vinh hiển.


Bất cứ khi nào con dân Chúa nhóm nhau lại trong ngày Thánh của Chúa họ đều chứng thực rằng Chúa Giê-xu sống và Hội thánh của Chúa đã gội nhuận ơn phước thuộc linh. Lúc các môn-đệ của Chúa nhóm lại trong ngày Chúa Nhật đầu tiên, họ hoang mang và thất bại.


2. Họ nghe Ngài đã sống lại (Mat 28:2-8)

“Và này, đất rúng động dữ dội” (Mat 28:2).

Hai thiên sứ hiện ra (Lu 24:4) và một trong hai thiên sứ lăn hòn đá ra khỏi cửa mộ. Dĩ nhiên bọn lính đang canh gác quá đỗi sợ hãi về quyền năng siêu nhiên thình lình xảy ra. Hòn đá được lăn ra để Chúa Giê-xu bước ra, vì Ngài đã rời khỏi mộ. Hòn đá được lăn ra khỏi mộ để mọi người có thể tự mình xem thấy ngôi mộ trống không.


Một trong hai thiên sứ phán với các người đàn bà và trấn an nỗi sợ hãi của họ.“Ngài không ở đây đâu! Ngài sống lại rồi Hãy đến xem!” Bạn nhớ rằng những người phụ nữ này cũng như các môn đệ không mong Chúa Giê-xu sống lại.


Họ đã thấy gì nơi phần mộ? Vải liệm nằm trên phiến đá, vẫn còn được quấn theo hình dáng của xác người (Gi 20:5-7). Chúa Giê-xu đã nằm trong tấm vải liệm và Ngài để lại làm bằng chứng Ngài đã sống lại. Chúng nằm đó giống như tấm đắp trống không. Không có dấu hiệu nào cho thấy có sự chiến đấu, các tấm vải liệm được xếp đặt ngay ngắn. Ngay cả khăn trùm đầu (quấn quanh khuôn mặt Chúa) cũng được xếp cẩn thận ở một chỗ.


Chúng ta không thể xem xét chứng cớ này theo như cách các môn đệ trong buổi sáng Phục Sinh đầu tiên. Nhưng chúng ta có bằng chứng là lời Đức Chúa Trời. Dây trói sự chết không giữ được Chúa Giê-xu (Công 2:24). Ngài đã hứa sẽ sống lại từ kẻ chết, và Lời của Ngài không bao giờ hư đi.


Sự biến đổi nổi bật trong cuộc đời của các môn đệ đầu tiên là bằng chứng khác về sự Phục Sinh của Ngài. Ngày hôm nọ họ sợ hãi và chạy trốn trong thất bại. Nhưng ngày hôm sau họ rao báo về sự Phục Sinh của Ngài và bước đi trong chiến thắng mừng rỡ. Thực ra, họ sẵn lòng chết vì chân lý của sự sống lại. Nếu tất cả các sự kiện này là một truyện bịa đặt, thì không bao giờ cuộc đời họ có thể biến đổi hoặc khiến họ có thể phó mạng sống mình như người tử đạo.


Có trên 500 người cùng lúc tận mắt xem thấy Chúa Giê-xu sống (ICôr 15:3-8). Các lần hiện ra của Đấng Christ phục sinh thực sự bằng xương bằng thịt đến nỗi người ta không thể giải thích các sự kiện ấy là do ảo giác hoặc tự lừa dối. Mọi người thấy Ngài đều ngạc nhiên sửng sốt. Chắc chắn không thể có đến trên 500 người bị ảo giác cùng một lần như vậy. Ngay cả sứ-đồ Phao-lô, là kẻ bắt bớ Hội thánh, cũng thấy Đấng Christ sống lại kinh nghiệm đó đã biến đổi cuộc đời ông (Công 9:1-30).


Sự tồn tại của Hội thánh, Kinh Thánh Tân-ước, và Ngày Chúa Nhật là những bằng chứng thêm vào tỏ rõ Chúa Giê-xu hiện đang sống. Trải qua nhiều thế kỷ, Do-thái là tuyển dân của Đức Chúa Trời, và họ coi trọng ngày thứ bảy, ngày Sa-bát. Rồi một biến cố xảy ra: Người Giu-đa và ngoại bang hiệp một trong Hội thánh và trở nên con cái Đức Chúa Trời họ gặp nhau vào ngày thứ nhất trong tuần lễ, ngày Chúa Nhật. Kinh Thánh Tân-ước sẽ vô giá trị nếu Chúa Giê-xu chết, vì mỗi phần của Tân-ước đều nói đến một Đấng Christ sống.


Dĩ nhiên, mỗi Cơ-đốc nhân đều kinh nghiệm quyền năng sự sống lại trong đời sống mình. Trong cuộc sống nội tâm, chỉ đơn thuần kinh nghiệm chủ quan sẽ không chứng minh được sự sống lại của Chúa theo tính chất lịch sử, khi kết hợp các bằng chứng khác sẽ thêm sức thuyết phục cho vấn đề này. “Những người tin” ở mọi hình thức thờ cúng sẽ nói theo cách của họ là đúng do những gì họ đã kinh nghiệm.

Nhưng Cơ-đốc nhân chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi lịch sử Hội thánh, Kinh Thánh, và các nhân chứng có thể tin cậy xác nhận từng trải đức tin riêng tư của họ.


“Hãy đi nói” theo sau “Hãy đến xem”. Chúng ta không được giữ kín tin tức Đấng Christ Phục Sinh cho riêng chúng ta. Thiên sứ sai mấy người đàn bà đi nói cho các môn-đệ Đấng Christ biết tin Ngài sống lại. Đáng lẽ họ mong đợi tin vui ấy, nhưng họ hoài nghi không tin khi nghe đến.


3. Họ gặp chính Chúa Giê-xu Christ đang sống (Mat 28:9-15)

Chính lúc chúng ta vâng theo lời Đức Chúa Trời thì Ngài đến với chúng ta. Chúa Giê-xu đã hiện ra cho Ma-ri Ma-đơ-len trong vườn (Gi 20:11-18; Mac 16:9). Bạn lưu ý sau khi sống lại, trước hết Chúa đã hiện ra hai lần cho các phụ nữ có lòng tin kính Chúa. Những phụ nữ trung thành này không chỉ là người sau cùng rời khỏi đồi Gô-gô-tha, nhưng họ cũng trước nhất đến thăm mộ. Họ đã được Chúa Giê-xu ban thưởng vì lòng tận hiến cho Ngài.


“Mừng các ngươi!” có thể dịch là ân điển.

Thật là lời chào tuyệt diệu trong ngày Phục Sinh! Mấy người phụ nữ gieo mình dưới chân Ngài, ôm chân Ngài và thờ lạy Ngài. Chắc chắn trong lòng họ cũng có nỗi sợ hãi, vì Ngài liền trấn an họ, “Đừng sợ!”


Không chỉ có thiên sứ giao nhiệm vụ cho họ, nhưng Chúa cũng sai bảo họ. Nhóm từ “Anh em ta” cho thấy mối quan hệ mật thiết giữa Đấng Christ và các môn đệ của Ngài.Sáng sớm hôm ấy Chúa Giê-xu đã phán với Ma-ri Ma-đơ-len giống như vậy (Gi 20:17). Chúa Giê-xu tăng thêm sức mạnh cho lời chỉ dạy của thiên sứ rằng các môn đệ sẽ gặp Ngài tại xứ Ga-li-lê (Mat 28:7). Trong vườn cầu nguyện Chúa Giê-xu đã phán dạy các môn đệ rằng Ngài sẽ từ kẻ chết sống lại và gặp họ tại xứ Ga-li-lê nhưng họ đã quên lời Ngài (Mat 26:31-32).


Trong khi các môn-đệ theo Ngài thờ lạy Đấng Christ sống lại, thì những kẻ không tin đang tìm mưu phá đổ bằng chứng sống lại của Chúa Giê-xu Christ. Vào lúc này, một số binh lính nhận ra rằng họ đã trải qua cảnh trạng kinh hoàng. Dấu niêm phong của chính quyền La-mã bị phá tung, tảng đá bị lăn đi, và xác chết không còn ở trong mộ nữa.

Đối với một binh lính La-mã không hoàn thành nhiệm vụ canh gác có thể phạt tội chết (Công 12:19; Công 16:27-28). Nhưng bọn lính tinh khôn, chúng không báo tin cho Phi-lát hoặc cho cấp trên của mình nhưng báo tin cho các thầy tế lễ Do-thái giáo. Chúng biết rằng các thầy tế lễ sẽ lo giấu nhẹm phép lạ cũng như bản thân chúng nữa! Các thầy tế lễ bàn luận với các trưỡng lão và bọn lính, họ thêu dệt một câu chuyện để giải thích lý do ngôi mộ trống không: Xác chết đã bị đánh cắp.


Xem xét câu chuyện này, chúng ta thấy việc Chúa Giê-xu sống lại đã thực sự được chứng minh. Nếu thi hài của Chúa Giê-xu bị đánh cắp, thì ai đã làm việc ấy, bạn bè hay kẻ chống nghịch Ngài. Bạn bè Ngài không thể làm đều đó được vì họ đã bỏ đi và tin rằng Chúa Giê-xu đã chết. Kẻ thù của Ngài sẽ không lấy cắp xác Ngài vì họ đang tìm cách ngăn chận niềm tin vào sự sống lại của Ngài. Chắc chắn họ không đạt được mục đích nếu dời xác Ngài đi nơi khác. Và nếu đã đánh cắp xác Ngài, tại sao họ không loan tin ấy ra và triệt tiêu lời làm chứng của sáng sớm Chúa nhật hôm ấy?


Bất cứ ai lấy cắp xác chết chắc chắn sẽ mang thi thể còn nguyên vải liệm. Nhưng vải liệm còn để nguyên lại trong mộ được xếp đặt ngay ngắn. Đây là cảnh tượng khó xảy ra trong một vụ lấy trộm xác chết.


Các nhà lãnh đạo tôn giáo đã trả tiền cho hành động phản bội của Giu-đa. Họ cũng dùng tiền để bọn lính phao tin người ta đã đánh cắp xác Chúa Giê-xu. Chắc chắn mấy tên lính La-mã này đã đòi một khoản tiền lớn, vì mạng sống của chúng đang bị đe dọa. Nếu cấp trên nghe chúng không hoàn thành nhiệm vụ, chúng có thể bị xử tử. Mặc dù câu chuyện lọt đến tai Phi-lát, nhưng dường như ông không mong đợi tin ấy. Ông tin rằng Chúa Giê-xu đã chết (Mac 15:43-45), và tất cả đều đó không ảnh hưởng gì đến ông. Xác Chúa Giê-xu biến mất không tạo nên khó khăn gì cho Phi-lát.


Trong một tác phẩm nhà văn Mark Twain đã viết lời nói dối có thể lan khắp thế giới trong khi sự thật vẫn nằm yên một chỗ. Trong bản chất con người có điều gì đó khiến con người dễ tin sự dối trá. Không đợi cho đến khi Đức Thánh Linh giáng lâm trong ngày lễ Ngũ Tuần và lời chứng quyền năng của các sứ-đồ, người Giu-đa tại Giê-ru-sa-lem đã khám phá ra sự thật: Chúa Giê-xu Christ đã sống lại! Bất kỳ ai có lòng thành thật tìm hiểu bằng chứng này sẽ kết luận rằng sự sống lại của Chúa Giê-xu Christ là một sự kiện có thật trong lịch sử không ai có thể chối cãi được!


Cứu Chúa chúng ta cũng hiện ra cho hai môn-đệ về làng Em-ma-út ngày hôm ấy (Lu 24:13-2), và hiện ra cho mười môn-đệ tại phòng cao trong thành phố Giê-ru-sa-lem (Gi 20:19-25). Một tuần lễ sau, Ngài hiện ra cho 11 môn-đệ và giải đáp cho sự không tin của Thô-ma (Gi 20:19-25). Trong ngày Chúa Nhật Phục Sinh đầu tiên, Chúa Giê-xu cũng hiện ra đặc biệt cho Phi-e-rơ (Lu 24:33-35; ICôr 15:5).


Sáng sớm hôm bắt đầu bằng việc, các môn-đệ và mấy người phụ nữ nghĩ rằng Chúa Giê-xu đã chết. Rồi họ nghe tin Ngài sống lại. Sau khi nghe tin họ gặp Ngài bằng xương bằng thịt. Có thêm một chặng đường mới trong kinh nghiệm theo Chúa của họ.


4. Họ chia sẻ tin mừng cho người khác (Mat 28:16-20)

Một vài học giả Kinh Thánh coi “buổi họp mặt trên núi” tại xứ Ga-li-lê tương đương với sự hiện ra của Chúa cho “hơn 500 anh em xem thấy cùng một lúc” (ICôr 15:6). Sự việc có một số người hiện diện nghi ngờ sự sống lại của Ngài chứng tỏ có trên 11 môn-đệ có mặt vào lúc ấy, vì bây giờ các môn đệ không còn nghi ngờ về Chúa Phục sinh. Sự thăng thiên của Chúa không xảy ra vào lúc này, nhưng về sau, sau khi Ngài đã dạy dỗ thêm sức cho môn-đệ Ngài tại Giê-ru-sa-lem (Lu 24:44-53).


Mat 28:18-20 thường được mọi người gọi là “Đại Mạng Lịnh”, mặc dầu lời phán này không đầy đủ hơn lời phán trong các sách Phúc-Âm khác, và cũng không phải là lời phán sau chót trứớc khi Chúa Giê-xu rời họ về trời. Tuy vậy, đây là mệnh lệnh dành cho chúng ta là những kẻ tin, vì vậy chúng ta phải hiểu các yếu tố trong mạng lịnh này.


Quyền Phép (Mat 28:28:18).

Trong câu này, chữ quyền năng có nghĩa là “quyền phép”, được phép sử dụng quyền năng. Cả sách Phúc-âm Ma-thi-ơ nhấn mạnh đến quyền phép của Chúa Giê-xu Christ.

-Ngài giảng dạy đầy uy quyền (Mat 7:29).

Ngài thực hành quyền phép trong việc chữa lành tật bệnh (Mat 8:1-13), và ngay cả Ngài có quyền tha thứ tội lỗi nữa (Mat 9:6). Ngài có uy quyền trên quỷ Sa-tan, và giao cho các sứ đồ quyền năng đuổi quỷ chữa bệnh (Mat 10:1). Kết thúc sách Phúc-Âm, Ma-thi-ơ cho chúng ta thấy rõ rằng hết thảy quyền phép đều thuộc về Chúa Giê-xu.


Vì Chúa Giê-xu Christ ngày nay có mọi quyền phép cho nên chúng ta có thể vâng lời Ngài mà không sợ hãi. Cho dù Ngài dẫn dắt chúng ta bất cứ nơi đâu, chúng ta phải đối diện với bất cứ hoàn cảnh nào, Ngài cũng đang nắm quyền kiểm soát. Bởi sự chết và sống lại của Ngài, Chúa Giê-xu đánh bại mọi kẻ thù và giành lấy cho Ngài mọi quyền năng.


Cơ đốc giáo là đức tin truyền giáo.

Chính bản chất của Đức Chúa Trời đòi hỏi đều này, vì Đức Chúa Trời là sự yêu thương và Ngài không muốn một ai bị chết mất (IIPhi 3:9). Sự chết của Chúa chúng ta trên thập tự giá dành cho cả thế gian. Nếu chúng ta là con cái của Đức Chúa Trời và có cùng bản tính của Ngài, chúng ta sẽ khao khát nói về tin tức tốt lành cho thế giới hư mất.


Khi đọc sách Công-vụ các sứ-đồ, chúng ta hiểu rằng Hội thánh đầu tiên hoạt động trên nền tảng quyền năng tối thượng của Chúa. Họ thi hành sứ mạng của Ngài trong danh Ngài. Họ nương cậy nơi quyền năng và sự hướng dẫn của Ngài. Họ không đương đầu với thế gian hư hoại bằng năng lực riêng nhưng trên quyền phép của Chúa Giê-xu Christ.


Hành Động (Mat 28:19-20a).

Động từ trong tiếng Hy-lạp dịch chữ “hãy đi” thực sự không phải là một mệnh lệnh nhưng là một phân từ hiện tại (đang đi). Mạng lịnh duy nhất trong trong Đại Mạng Lịnh là “khiến mọi người trở nên môn-đệ của Chúa” (dạy dỗ muôn dân). Chúa Giê-xu phán, “Trong khi các ngươi đi ra, hãy khiến muôn dân trở nên môn đệ TA.

Cho dù chúng ta ở bất cứ nơi nào, chúng ta cũng phải làm chứng nhân cho Chúa Giê-xu Christ và tìm cách dắt đưa người khác đến với Ngài (Công 11:19-21).


Từ ngữ “môn-đệ” là một tên gọi quen thuộc nhất đối với những tín hữu đầu tiên. Được gọi là môn đệ có ý nghĩa lớn lao hơn là một người tin đạo hoặc một thành viên trong Hội Thánh. Người học đạo có thể là thuật ngữ tương đương cho từ ngữ trên. Một môn đệ (người học đạo) tự gắn liền với thầy của mình, đồng cảm với thầy, học tập nơi thầy và cùng sống với thầy. Người học không chỉ lắng nghe nhưng còn làm theo. Chúa chúng ta kêu gọi 12 môn đệ và dạy họ để họ có đủ khả năng dạy người khác (Mac 3:13).


Lúc ấy môn đệ là ngừơi đã đặt lòng tin cậy vào Chúa Giê-xu Christ và công khai bày tỏ đức tin qua việc nhận lễ Báp-têm. Người giữ sự thông công với anh em trong đức tin để được dạy dỗ về lẽ thật của đức tin (Công 2:41-47). Người cũng có khả năng đi ra dắt đem người khác về cùng Chúa và dạy họ giữ đạo sự sống. Đây là kiểu mẫu của Hội thánh trong thời Tân-ước (IITi 2:1-2)


Trong nhiều lãnh vực, chúng ta đã tách rời kiểu mẫu này. Ở hầu hết các Hội thánh, giáo hội trả lương cho mục sư giảng đạo, chinh phục tội nhân hư mất, và lấy thêm người được cứu vào trong Hội thánh - trong khi các thành viên Hội thánh chỉ đóng vai trò hô hào (nếu như họ nhiệt thành) hoặc chỉ là người chứng kiến.

Những “người cải đạo” tin Chúa, chịu Báp-têm, và được ban cho quyền thông công với anh em, rồi họ nhập vào những khán giả khác.

Hội thánh sẽ lớn mạnh nhanh biết bao nhiêu, các thành viên trong Hội thánh sẽ mạnh mẽ và hạnh phúc hơn biết bao nếu mỗi tín hữu đều đang khiến người khác trở nên môn đệ của Chúa. Phương cách duy nhất một Hội thánh địa phương có thể “kết quả và sai trái hơn” (thay vì phát triển theo cách “tăng thêm số sinh sản”) là chương trình phát triển đạo Chúa có hệ thống hẳn hoi. Đây là trách nhiệm của mỗi một tín hữu, và không chỉ dành cho một nhóm nhỏ những người đã được “sai đi”.


Chúa Giê-xu mở trí các môn-đệ hiểu được lời phán dạy của Ngài (Lu 24:44-45). Họ biết đều Ngài muốn họ dạy cho những người họ đưa dắt trở lại đạo. Chinh phục người khác đến với Đấng Christ chưa đủ, chúng ta cũng phải dạy họ về Lời Hằng sống của Đức Chúa Trời. Đây cũng là một phần trong Đại Mạng Lịnh của Chúa.


Khả Năng (Mat 28:20b).

Chúa Giê-xu không chỉ “ở giữa” khi môn-đệ Ngài nhóm họp Mat 18:20), nhưng Ngài còn ở với khi họ tản lạc khắp thế gian làm chứng nhân cho Ngài. Nếu Chúa Giê-xu còn ở trên thế gian, Ngài không thể làm trọn lời hứa này. Chính lúc Đức Thánh Linh ngự đến, khi ấy Chúa Giê-xu có thể ở với con cái Ngài cho dù họ ở bất cứ nơi nào.


Tiến sĩ G.Campbell Morgan kể về một kinh nghiệm trong cuộc đời của ông có liên quan đến lời phán dạy này. Trong buổi đầu của cuộc sống theo Chúa, mỗi tuần một lần Morgan thường đến thăm một số phụ nữ cao tuổi để đọc Kinh Thánh cho họ nghe. Khi đến phần cuối của sách Ma-thi-ơ, Morgan đọc, “Và này, Ta thường ở cùng các ngươi cho đến tận thế.” 

Ông thêm, “Đó không phải là một lời hứa kỳ diệu sao?”.

Một bà nhanh nhẹn đáp lại, “Nầy cháu ơi, đó không phải là lời hứa - đó là một sự kiện!”


Chúng ta không cần có một điều kiện nào để được gặp gỡ hoặc ngay cả tin Ngài vì Chúa Giê-xu Christ ở cùng chúng ta. Thánh Phao-lô khám phá ra đều này là sự thật khi ông tìm cách thành lập Hội thánh trong thành phố Cô-rinh-tô cứng cỏi vô tín.

Vâng theo mạng lịnh này, Phao-lô đến với thành phố ấy (Công 18:1), chinh phục người ta cho Đấng Christ, làm Báp-têm cho họ (Công 18:8) và dạy họ về lời Đức Chúa Trời (Công 18:11). Khi bị ngăn trở, Phao-lô được Chúa thăm viếng đặc biệt: “Đừng sợ... vì Ta ở cùng ngươi...” (Công 18:9-10).


Nhóm từ “cho đến tận thế” cho thấy Chúa chúng ta có một kế hoạch Ngài là Chúa của lịch sử. Khi Hội thánh đi theo sự dẫn dắt của Ngài và vâng theo lời Ngài dạy, Hội thánh làm trọn mục đích của Ngài trên thế gian. Một ngày kia tất cả sẽ đi đến chung cuộc, trong khi chờ đợi, chúng ta phải hết lòng trung tín với Chúa.



bottom of page