top of page
1. ĐỨC CHÚA TRỜI ĐANG Ở ĐÂY (Gi 1:1-51)
“Nhưng quả thật rằng Đức Chúa Trời ngự trên đất này chăng?”
Đó...
...là câu hỏi vua Sa-lô-môn thốt lên khi dâng đền thờ cho Đức Chúa Trời (IVua 8:27). Thật là câu hỏi chính đáng! Vinh hiển của Đức Chúa Trời đã từng đầy dẫy nơi Đền Tạm (Xu 40:34) và đền thờ (IVua 8:10-11). Tuy nhiên, vinh hiển ấy đã lìa khỏi dân Y-sơ-ra-ên bội nghịch (Exe 9:3; Exe 10:4,18; Exe 11:22-23).
Sau đó, điều kỳ diệu đã xảy ra khi vinh hiển của Đức Chúa Trời đến với dân sự một lần nữa qua thân vị của Con Ngài - Chúa Giê-xu. Các tác giả Phúc-Âm cho chúng ta những hình ảnh chung về cuộc đời Chúa Giê-xu trên đất, và chưa có ai viết lại cuộc đời Ngài một cách đầy đủ (Gi 21:25).
Ma-thi-ơ viết sách Phúc-Âm cho người Do-thái và tập trung vào lẽ thật về việc Chúa Giê-xu Na-xa-rét đã làm trọn những lời tiên tri trong Cựu-ước. Mác lại viết cho người La-mã bận rộn. Ma-thi-ơ nói đến một vị Vua, Mác giới thiệu một Đầy tớ hầu việc kẻ khốn khó.
Lu-ca viết Phúc-Âm cho người Hy-lạp (Gờ-réc) để giới thiệu với họ Con Người đầy lòng thương xót.
Xét đến Giăng, môn đệ được Chúa yêu, ông đã viết Phúc-Âm cho cả người Do-thái lẫn người ngoại, giới thiệu Chúa Giê-xu là Con Đức Chúa Trời. Chúng ta biết rằng ông nhớ đến người Do-thái và cả người ngoại, vì ông thường giải nghĩa những từ ngữ hoặc phong tục Do-thái cho các độc giả của mình (Gi 1:38,41-42; Gi 9:7; Gi 19:13,17; Gi 20:16).
Ông nhắc người Do-thái nhớ rằng Chúa Giê-xu không chỉ làm ứng nghiệm những lời tiên tri trong Cựu-ước, Ngài còn bày tỏ trọn vẹn những phẩm cách của chính mình. Chúa Giê-xu là Chiên Con Đức Chúa Trời (Gi 1:29) và là chiếc thang từ trời xuống đất (Gi 11:51; Sa 28:1-22). Ngài là Đền thờ mới (Gi 2:19-21) và Ngài có thể ban cho con người sự tái sinh (Gi 3:4). Ngài là con rắn bị treo lên (Gi 3:14) cũng là “Bánh sự sống” của Đức Chúa Trời ban xuống (Gi 6:35).
Trong khi ba sách Phúc-Âm đầu chủ yếu mô tả những sự kiện xảy ra trong cuộc đời Chúa Giê-xu, Giăng đặc biệt nêu bật ý nghĩa của những sự kiện ấy. Ví dụ như, bốn sách Phúc-Âm đều chép lại việc Chúa nuôi 5.000 người, nhưng chỉ có Giăng ghi lại bài giảng của Chúa về “Bánh Sự Sống” Ngài cắt nghĩa cho dân sự sau khi thực hiện phép lạ.
Một chủ đề xuyên suốt trong Phúc-âm Giăng, đó là Chúa Giê-xu là Con Đức Chúa Trời, nếu bạn dâng đời sống cho Ngài, bạn sẽ được Ngài ban cho sự sống đời đời (Gi 20:31). Ở đoạn 1, Giăng kể ra 7 danh hiệu của Chúa Giê-xu cho thấy Ngài chính là Đức Chúa Trời Hằng Hữu.
1. Ngôi Lời (Gi 1:1-3,14)
Để bày tỏ lòng và trí mình với người khác, chúng ta sử dụng lời lẽ. Cũng vậy, Chúa Giê-xu là Lời Đức Chúa Trời sử dụng để bày tỏ với chúng ta ý muốn Ngài. “Ai đã thấy ta, tức là đã thấy Cha!” (Gi 14:9). Một từ gồm có những chữ cái ghép lại, vì vậy Chúa Giê-xu là “Alpha và Omega” (Kh 1:8), chữ cái đầu tiên và cuối cùng trong mẫu tự Hy-lạp. Theo He 1:1-3, Chúa Giê-xu là Lời của Đức Chúa Trời dành cho con người trong ngày sau rốt, bởi Ngài là tuyệt đỉnh của sự mạc khải thiên thượng.
• Chúa Giê-xu là Lời Vĩnh Hằng (Gi 1:1-2).
Ngài hiện diện từ buổi sáng thế, không phải như vật thọ tạo, vì Ngài là vĩnh hằng. Ngài là Đức Chúa Trời và Ngài ở cùng Đức Chúa Trời .“Trước khi chưa có Áp-ra-ham, đã có Ta” (Gi 8:58).
• Ngài cũng là Lời của sự tạo dựng (Gi 1:3).
Hẳn có điểm tương đồng giữa Gi 1:1 với Sa 1:1, sự tạo dựng mới với sự tạo dựng cũ, Đức Chúa Trời dựng nên muôn vật bởi lời phán của Ngài: “Đức Chúa Trời phán: phải có...” “Vì Ngài phán, thì việc liền có, Ngài biểu, thì vật bèn đứng vững bền” (Thi 33:9). Muôn vật được dựng nên trong Chúa Giê-xu (Co 1:16), có nghĩa là Chúa Giê-xu không phải như một tạo vật. Ngài chính là Đức Chúa Trời vĩnh hằng.
Động từ “được dựng nên” ở thì quá khứ hoàn thành trong tiếng Hy-lạp, có nghĩa như một “hành động đã hoàn tất”. Sự tạo dựng đã hoàn tất. Đây không phải là một tiến trình còn đang tiếp diễn, dù Đức Chúa Trời vẫn đang hành động trong sự sáng tạo của Ngài (Gi 5:17). Việc sáng tạo không phải là một tiến trình, đó là một sản phẩm đã hoàn tất.
• Chúa Giê-xu còn là Lời “trở nên xác thịt” (Gi 1:14).
Ngài không phải là một bóng ma hay thần linh khi thi hành chức vụ trên đất, thân thể Ngài cũng không phải là ảo ảnh. Giăng và các môn đệ khác đều kinh nghiệm về sự thực hữu của thân thể Chúa trên đất (IGi 1:1-2). Dù Giăng xác nhận thần tính Chúa Giê-xu, nhưng ông cũng cho thấy rõ Con Đức Chúa Trời, đã hiện diện bằng xác thịt, dễ bị ảnh hưởng bởi sự yếu đuối của bản chất con người.
Qua Phúc-Âm, Giăng chứng minh Chúa Giê-xu cũng từng trải sự mỏi mệt (Gi 4:6), đói khát (Gi 4:7), đau lòng (Gi 11:33) và khóc (Gi 11:35). Trên thập tự, Ngài phải chịu khát (Gi 19:30) và đổ máu ra (Gi 19:34). Sau khi phục sinh, Ngài cho Thô-ma cùng các môn-đệ khác xem thân thể thực hữu của Ngài (Gi 20:24-29), một thân thể vinh hiển.
“Ngôi Lời đã trở nên xác thịt” như thế nào? Chính bởi phép lạ về sự giáng sinh từ nữ đồng trinh (Es 7:14; Mat 1:18-25; Lu 1:26-38). Ngài mang bản chất của con người thánh khiết, đồng cảnh với chúng ta trong mọi lãnh vực của cuộc sống từ khi giáng sinh đến lúc tắt hơi “Ngôi Lời” không còn là một khái niệm triết học trừu tượng nhưng là một Con người thật có thể thấy, rờ và nghe được. Cơ-đốc giáo là Đấng Christ và Đấng Christ là Đức Chúa Trời.
Sự mạc khải của vinh hiển Đức Chúa Trời là một chủ đề quan trọng trong Phúc-âm Giăng. Chúa Giê-xu bày tỏ vinh hiển Đức Chúa Trời qua thân vị Ngài, công việc Ngài và lời Ngài. Giăng đã ghi lại 7 dấu lạ bày tỏ vinh hiển Đức Chúa Trời (Gi 2:11). Vinh hiển của giao ước cũ của luật pháp là vinh hiển dễ qua đi, nhưng vinh hiển của giao ước mới trong Đấng Christ là “vinh hiển bội phần” (IICôr 3:1-18). Luật pháp có thể phơi bày tội lỗi nhưng không thể xoá bỏ được tội lỗi.Chúa Giê-xu đã đến với “sự đầy trọn của ân điển và chân lý”, sự đầy dẫy của Ngài dành sẵn cho tất cả những ai tin cậy Ngài (IICôr 1:16).
2. Sự Sáng (Gi 1:4-13)
Sự sống là một chủ đề chính trong Phúc-Âm, được nhắc đến 36 lần. Vậy những yếu tố cần thiết cho sự sống con người là gì? Có ít nhất 4 yếu tố: ánh sáng (nếu không có mặt trời, chúng ta sẽ chết), không khí, nước và thực phẩm. Chúa Giê-xu là tất cả! Ngài là ánh sáng của sự sống, và ánh sáng của thế gian (Gi 8:12). Ngài còn là “mặt trời công bình” (Ma 4:2).
Ngài ban cho chúng ta “Bánh của sự sống” (Gi 3:8; Gi 20:22), cũng như Nước sự sống (Gi 4:10,13-14; Gi 7:37-39) qua Thánh Linh.Sau cùng, Ngài là Bánh Sự Sống từ trời (Gi 6:35). Ngài không chỉ có sự sống và có thể ban sự sống, mà Ngài chính là Sự sống (Gi 14:6).
Sự sáng và sự tối tăm là những chủ đề tái hiện trong Phúc-âm Giăng. Đức Chúa Trời là sự sáng (IGi 1:5), còn Sa-tan là “quyền của sự tối tăm” (Lu 22:53). Con người hoặc ưa ánh sáng, hoặc mê sự tối tăm. Việc chọn lựa này sẽ điều khiển hành động của họ (Gi 3:16-19). Những ai tin nơi Chúa Giê-xu đều là “con cái của sự sáng” (Gi 12:35-36).
Sự tạo dựng đầu tiên khởi đầu từ lời phán: “Phải có sự sáng!”, vậy “sự tạo dựng mới” này cũng bắt đầu từ ánh sáng soi vào tấm lòng người tin nhận (IICôr 4:3-6). Chúa Giê-xu đến thế gian, báo hiệu buổi bình minh của một ngày mới dành cho tội nhân (Lu 1:78-79).
Có lẽ bạn nghĩ rằng tội nhân mù loà sẽ hân hoan đón nhận sự sáng này. Không phải hoàn toàn như thế. Sự hiện diện của ánh sáng thật sẽ đem đến xung đột khi đối diện với sự chống nghịch từ phía quyền lực tối tăm. Nghĩa đen của Gi 1:5 có thể đọc như sau: “Sự sáng tiếp tục chiếu sáng trong tối tăm. Nhưng tối tăm không thể chế ngự sự sáng hay hiểu nó.”
Động từ Hy-lạp có thể có nghĩa là “chế ngự” hay “nắm lấy, hiểu”. Qua Phúc-âm Giăng, bạn sẽ thấy có hai thái độ: con người không nhận lấy những điều Chúa phán và việc Ngài làm, vì vậy họ sẽ chống nghịch Ngài. Từ đoạn 7-12 ghi lại mức độ chống nghịch của họ, cuối cùng dẫn đến việc Đấng Christ bị đóng đinh trên thập tự giá.
Mỗi khi Chúa Giê-xu dạy dỗ về một lẽ thật thuộc linh, những kẻ nghe Ngài đều giải nghĩa theo đường lối vật chất thế tục. Sự sáng không thể soi vào tâm trí tối tăm của họ. Đây là sự thật khi Chúa nói về đền thờ của thân thể Ngài (Gi 2:19-21), sự tái sinh (Gi 3:4), Nước hằng sống (Gi 4:11), ăn thịt Ngài (Gi 6:51) sự tự do thuộc linh (Gi 8:30-36), chết tựa như giấc ngủ (Gi 11:11-13) và nhiều lẽ thật khác.
Sa-tan ra sức giữ con người trong sự tối tăm vì sự tối tăm đồng nghĩa với sự chết và âm phủ, còn sự sáng là sự sống và thiên đàng. Sự kiện này giúp giải thích chức vụ của Giăng Báp-tít (Gi 1:6-8). Ông được sai đi như một chứng nhân của Chúa Giê-xu, cho dân sự biết rằng sự sáng đã đến thế gian.
Có nhiều cơ hội thuộc linh, nhưng dân Y-sơ-ra-ên vẫn mù lòa về Đấng Mê-si-a của họ! “Làm chứng” là chữ chìa khóa trong sách này. Giăng dùng từ này trong dạng danh từ mười bốn lần và trong dạng động từ ba mươi ba lần. Giăng Báp-tít là một trong số nhiều người đã làm chứng rằng: “Đây là Con Đức Chúa Trời”. Giăng đã tử đạo, còn những nhà lãnh đạo Do-thái chẳng làm gì để can ngăn việc ấy.
Vì sao dân này khước từ Đấng Christ? Bởi họ “chẳng từng nhìn biết Ngài”, họ ở trong tình trạng ngu dốt thuộc linh. Chúa Giê-xu là ánh sáng thật, trong lúc các ánh sáng khác chỉ là bản sao của ánh sáng Ngài, nhưng người Do-thái lại hài lòng với các bản sao. Họ có Môi-se và luật pháp, đền thờ và của lễ, nhưng chẳng hề hiểu rằng những “ánh sáng” đó hướng về Sự Sáng thật Đấng được xem là sự ứng nghiệm và thành toàn của tôn giáo Cựu-ước.
Khi suy ngẫm Phúc-âm Giăng, bạn sẽ thấy Chúa dạy dân sự rằng chính Ngài là sự ứng nghiệm của mọi điều ghi trong luật pháp. Sinh ra là người Do-thái không chưa đủ họ phải được tái sinh, sinh ra từ Thiên thượng (Gi 3:1-36). Ngài thực hiện 2 phép lạ trong ngày Sa-bát để dạy họ rằng Ngài có một sự yên nghỉ mới để ban cho họ (Gi 5:9) Ngài là ma-na làm cho thoả mãn (Gi 6:1-71) và là nước ban sự sống (Gi 7:37-39). Ngài là Người chăn của bầy chiên mới (Gi 10:16), cũng là “Gốc nho” mới (Gi 15:1-11). Nhưng dân sự quá bị lệ thuộc vào truyền thống tôn giáo, đến nỗi không hiểu được lẽ thật thuộc linh. Chúa Giê-xu đã đến với thế giới Ngài dựng nên, nhưng Y-sơ-ra-ên dân Ngài không hiểu Ngài, không muốn tiếp nhận Ngài.
Dân này từng chứng kiến việc Ngài làm, nghe lời Ngài phán cũng như mục kích đời sống trọn vẹn của Ngài. Ngài cho họ cơ hội đến với lẽ thật, tin nhận để được cứu rỗi. Chúa Giê-xu là đường đi, nhưng họ không đồng hành với Ngài (Gi 6:66-71). Ngài là lẽ thật, nhưng họ không tin nhận Ngài (Gi 12:37) Ngài là sự sống nhưng họ đóng đinh Ngài!
Ngày nay, tội nhân không nên phạm những sai lầm này. Gi 1:12 cho chúng ta biết lời hứa kỳ diệu của Đức Chúa Trời: những ai tin nhận Chúa Giê-xu sẽ được tái sinh để bước vào gia đình của Đức Chúa Trời! Giăng nói thêm về sự tái sinh ở đoạn Gi 3:1-36, nhưng ở đây ông muốn nói về sự tái sinh từ Đức Chúa Trời, chớ không phải sự sinh sản về phương diện thể xác bởi khí huyết con người.
Sự sáng vẫn đang chiếu soi! Còn bạn đã nhận sự sáng để trở nên con cái Đức Chúa Trời hay chưa?
3. Con Đức Chúa Trời (Gi 1:15-28,49)
Giăng Báp-tít là một trong những nhân vật rất quan trọng trong Tân-ước. Ông được nhắc đến ít nhất 89 lần Giăng được ban cho đặc ân giới thiệu về Chúa Giê-xu cho dân Y-sơ-ra-ên. Ông cũng mang trọng trách lớn, chuẩn bị dân tộc tiếp Đấng Mê-si-a. Ông kêu gọi mọi người ăn năn tội và bày tỏ sự ăn năn qua phép báp-têm và rồi sống đời sống được thay đổi.
Giăng tóm tắt những điều Giăng Báp-tít phải rao truyền về Chúa Giê-xu (Gi 1:15-18).
-Trước hết, Ngài là Đấng Vĩnh Cửu (Gi 1:15).
Giăng Báp-tít ra đời trước Chúa Giê-xu sáu tháng (Lu 1:36), vì vậy, câu nói này đề cập đến sự tồn tại từ trước của Chúa, không phải nói về thời điểm Ngài giáng sinh trên đất Chúa Giê-xu thật đã hiện hữu từ trước khi Giăng Báp-tít được hoài thai trong bụng mẹ!
Chúa Giê-xu là Đấng đầy dẫy “ân điển và chân lý” (Lu 1:16-17). “Ân điển” là ân huệ và lòng nhân từ của Đức Chúa Trời ban tặng cho những người không xứng đáng nhận và cũng không thể tìm được. Nếu Đức Chúa Trời đối đãi với chúng ta chỉ theo chân lý thì không ai trong chúng ta sống sót nổi! Nhưng Ngài đã đối đãi chúng ta bằng “ân điển và chân lý”.
Qua đời sống, sự chết và sự phục sinh, Chúa Giê-xu đã đáp ứng mọi yêu cầu của luật pháp. Giờ đây, Đức Chúa Trời có thể ban ơn dư dật cho người tin nhận Chúa Giê-xu. Ân điển không có chân lý, đó là sự lừa dối.Chân lý không có ân điển là sự kết án!
Qua Lu 1:17 Giăng không có ý cho rằng không hề có ân điển dưới luật pháp Môi-se, bởi vì ân điển thật đã có. Mỗi của lễ là sự bày tỏ ân điển của Đức Chúa Trời. Luật pháp cũng bày tỏ chân lý của Đức Chúa Trời. Nhưng trong Chúa Giê-xu, “ân điển và chân lý” đạt đến sự trọn vẹn.
Và sự trọn vẹn này được dành sẵn cho chúng ta.Chúng ta được cứu rỗi bởi “ân điển” (Eph 2:8,9), cũng sống bởi ân điển (ICôr 15:10) và lệ thuộc vào ân điển Đức Chúa Trời trong mọi việc mình làm. Chúng ta có thể nhận biết ơn này đến ơn khác, vì “Ngài ban cho ta ơn lớn hơn nữa” (Gia 5:6). Qua Gi 1:7 Giăng muốn nói rằng một trật tự mới đã xuất hiện, thay thế hệ thống luật pháp Môi-se.
Sau hết, Chúa Giê-xu là Đấng bày tỏ Đức Chúa Trời cho chúng ta (Gi 1:18). Đức Chúa Trời vốn vô hình (ITi 1:17; He 11:27), con người có thể thấy sự bày tỏ của Ngài qua thiên nhiên (Rô 1:20; Thi 19:1-6) và qua công việc kỳ diệu của Ngài trong lịch sử, nhưng không thể nhìn thấy chính Ngài.
Chúa Giê-xu đã cho chúng ta biết về Đức Chúa Trời, vì Ngài là “hình ảnh của Đức Chúa Trời không thấy được” (Co 1:15) và là “hình bóng của bản thể Ngài” (He 1:3). Chúa Giê-xu đã bày tỏ cho chúng ta về Đức Chúa Trời và về chính Ngài. Chúng ta đương nhiên không thể hiểu Đức Chúa Trời trừ khi biết về Con Ngài, là Chúa Giê-xu.
Từ “Con” được dùng lần đầu trong Phúc-âm Giăng như một danh hiệu dành cho Chúa Giê-xu (Gi 1:18). “Con độc sanh” có nghĩa là “độc nhất, chỉ có một”. Điều này không có nghĩa là trước đó không có sự hiện hữu của Con, rồi Cha sinh Con ra trên đời! Chúa Giê-xu vốn chính là Đức Chúa Trời hằng hữu, Ngài đã có từ trước vô cùng.
Có ít nhất chín lần trong Phúc-âm Giăng, Chúa Giê-xu được gọi là “Con Đức Chúa Trời (Gi 1:34,49; Gi 3:18; Gi 5:25; Gi 10:36; Gi 11:4,27; Gi 19:7; Gi 20:31). Bạn sẽ thấy Giăng hẳn có mục đích rõ ràng khi thuyết phục chúng ta tin Chúa Giê-xu là Con Đức Chúa Trời (Gi 20:31). Chúa Giê-xu được gọi với tư cách là “Con” ít nhất mười chín lần.Ngài không chỉ là Con Đức Chúa Trời, Ngài còn là Đức Chúa Trời trong thân vị của “Con”. Ngay cả tà ma cũng thừa nhận điều này (Mac 3:11; Lu 4:41).
Giăng Báp-tít là một trong sáu nhân vật được nhắc đến trong Phúc-âm Giăng, đã làm chứng rằng Chúa Giê-xu là Đức Chúa Trời. Ngoài Giăng Báp-tít ra, còn có Na-tha-na-ên (Gi 1:49) Phi-e-rơ (Gi 6:69), người mù được chữa lành (Gi 9:35-38), Ma-thê (Gi 11:27) và Thô-ma (Gi 20:28). Nếu thêm lời chứng của chính Chúa Giê-xu (Gi 5:25 Gi 10:36), bạn sẽ có 7 nhân chứng trong Phúc-Âm này.
Giăng ghi lại bốn ngày trong đời của Giăng Báp-tít, Chúa Giê-xu và các môn-đệ đầu tiên. Ở đoạn 2, ông tiếp tục câu chuyện khi nói đến một tuần lễ của “sự tạo dựng mới” giống như “tuần lễ tạo dựng” ở Sa 1:1-31.
Vào ngày đầu tiên (Gi 1:19-24), các quan trưởng Giu-đa chất vấn Giăng Báp-tít. Đây là những người có quyền tìm hiểu về Giăng và chức vụ của ông, bởi họ là người canh giữ và bảo vệ niềm tin. Họ đặt ra nhiều câu hỏi, nhưng Giăng Báp-tít đều trả lời rành mạch, “Ông là ai?” hẳn là câu hỏi hợp lý.
Phải chăng Giăng Báp-tít là Đấng Mê-si-a của Đức Chúa Trời? Hay ông là tiên tri Ê-li được sai đến trước Đấng Mê-si-a (Ma 4:5), đoàn dân tụ tập lại nghe lời Giăng và nhiều người đã được làm phép báp-têm. Dù Giăng không thực hiện phép lạ nào (Gi 10:41), nhưng có thể dân chúng cho rằng ông là Đấng Mê-si-a của Đức Chúa Trời.
Giăng phủ nhận rằng ông không phải là Ê-li, cũng không phải là Đấng Mê-si-a. Trên một phương diện, ông là tiên tri Ê-li của lời hứa (Mat 17:10-13). Giăng Báp-tít không nói gì về bản thân mình vì ông được sai đến để nói về Chúa Giê-xu Chúa Giê-xu là Ngôi Lời, còn Giăng chỉ là “tiếng kêu”. Vì vậy bạn không thể nhìn thấy tiếng kêu! Giăng trích dẫn lời tiên tri Ê-sai (Es 40:1-3) và khẳng định chính ông đã làm ứng nghiệm lời ấy.
Biết chắc Giăng là ai, những kẻ chất vấn lại hỏi tiếp về chức vụ Giăng: “Cớ sao ông làm phép báp-têm?” Giăng được đặc quyền làm báp-tem không phải từ con người nhưng từ trên trời, và chính Đức Chúa trời đã giao phó cho ông chức vụ này (Mat 21:23-32). Thời bấy giờ, các thầy tế lễ trong dân sự thường làm phép báp-têm cho người ngoại muốn theo đạo của Do-thái. Vậy mà, Giăng Báp-tít lại báp-têm cho chính người Do-thái!
Giăng giải thích rằng ông làm báp-têm bằng nước, nhưng Đấng Mê-si-a đến sau sẽ làm báp-têm bằng Đức Thánh Linh. Một lần nữa, Giăng chứng minh ông không lập ra một tôn giáo mới hay đề cao bản thân. Ông chỉ muốn cho dân sự biết một Đấng Christ, Ngài là Con Đức Chúa Trời (Gi 1:34). Chúng ta sẽ biết rằng Chúa Giê-xu được dân Y-sơ-ra-ên biết đến bởi phép báp-têm.
4. Chiên Con của Đức Chúa Trời (Gi 1:29-34)
Đây là ngày thứ hai trong tuần lễ được Giăng ghi nhận, và dĩ nhiên có một số thành của cùng một nhóm người đến nghe Giăng Báp-tít giảng đạo. Lần này, ông gọi Chúa Giê-xu là “Chiên Con của Đức Chúa Trời”, một danh hiệu được ông nhắc lại vào ngày kế tiếp (Gi 1:35-36). Trong một phương diện sứ điệp Kinh Thánh có thể được tóm tắt trong danh hiệu này. Trong Cựu-ước, câu hỏi đặt ra là: “Chiên Con ở đâu?” (Sa 22:7).
Trong bốn sách Phúc-Âm, trọng tâm lại là “Hãy ngắm xem Chiên Con của Đức Chúa Trời”! Ngài đang ở đây! Nếu tin nhận Ngài, bạn hẳn có thể đồng thanh với đoàn thiên sứ rằng “Chiên Con đã chịu giết đáng được quyền phép, giàu có, khôn ngoan, năng lực, tôn quý, vinh hiển và ngợi khen!” (Kh 5:12)
Dân Y-sơ-ra-ên vốn đã quen thuộc với những chiên con được dâng làm của lễ. Với kỳ lễ Vượt Qua, mỗi gia đình phải ăn một chiên con và trong suốt năm mỗi ngày phải giết hai chiên con để dâng tại đền thánh cùng những chiên con khác dùng cho của lễ cá nhân. Những chiên con này được con người đem đến cho con người, nhưng đây là Chiên Con của Đức Chúa Trời, được chính Đức Chúa Trời ban cho con người! Những chiên con kia không thể xóa tội con người, nhưng Chiên Con Đức Chúa Trời thật có thể tẩy sạch tội lỗi. Những chiên con kia chỉ được dành cho dân Y-sơ-ra-ên, nhưng Chiên Con Đức Chúa Trời đổ huyết ra cho cả thế giới!
Nếu Chúa Giê-xu là Chiên Con Đức Chúa Trời, vậy phép báp-têm của Giăng có liên hệ gì đến Ngài? Các học giả của mọi giáo phái đều thừa nhận rằng phép báp-tem trong Tân-ước được thực hiện bằng cách dìm mình dưới nước. Đó là hình ảnh của sự chết, chôn và sự sống lại. Khi Giăng làm báp-têm cho Chúa Giê-xu, Chúa và ông đã phác họa hình ảnh của “phép báp-têm” mà Chúa sẽ chịu trên thập tự giá.
Đó là lúc Chiên Con Đức Chúa Trời chịu chết làm của lễ chuộc tội (Lu 12:50; Es 53:7). Bởi sự chết, chôn và sống lại, Chiên Con Đức Chúa Trời sẽ “làm trọn mọi việc công bình” (Mat 3:15).
• Có lẽ Giăng Báp-tít lầm lẫn.
Có lẽ Giăng không biết chắc Giê-xu Na-xa-rét có phải là Chiên Con Đức Chúa Trời và Con Đức Chúa Trời hay không. Tuy vậy, Đức Chúa Trời đã bày tỏ rõ cho Giăng biết về Chúa Giê-xu khi khiến Đức Thánh Linh giáng xuống như chim bồ câu, đậu trên Ngài. Đẹp thay hình ảnh Ba Ngôi Đức Chúa Trời!
5. Đấng Mê-si-a (Gi 1:35-42)
• Đây là diễn tiến của ngày thứ ba.
Ngày thứ bảy bao gồm đám cưới ở thành Ca-na (Gi 2:1). Vì đám cưới của dân Do-thái thường tổ chức vào thứ tư, nên ngày thứ ba này giống như “ngày Sa-bát”. Nhưng đây không phải là ngày nghỉ của Chúa Giê-xu và Giăng Báp-tít, bởi Giăng đang giảng đạo và Chúa Giê-xu đang thu nhận các môn đệ.
Hai môn-đệ Giăng Báp-tít đi theo Chúa Giê-xu, đó là Giăng, người viết Phúc-Âm này và bạn ông. Anh-rê, Giăng Báp-tít vui mừng khi đoàn dân lìa ông để theo Chúa Giê-xu, vì chức vụ của ông nhằm cho người khác biết Chúa Giê-xu “Ngài phải dấy lên, ta phải hạ xuống” (Gi 3:30).
Khi Chúa hỏi họ “Các ngươi tìm chi?” Ngài muốn họ xác nhận mục tiêu của mình. Phải chăng họ đang tìm một lãnh tụ cách mạng lật đổ La-mã? Nếu vậy, chắc họ nên đi theo những người phái cực đoan! Hôm ấy, Anh-rê và Giăng nhận biết cách lờ mờ về cuộc đời họ sẽ thay đổi ra sao bởi Con Đức Chúa Trời.
Câu hỏi “Thầy ở đâu?” có thể hiểu “Nếu bây giờ Thầy quá bận việc, chúng tôi sẽ đến với thầy sau”. Nhưng Chúa đã mời họ đến với Ngài trong ngày hôm ấy. Hẳn Ngài cũng cho họ biết điều gì đó trong chức vụ Ngài, phơi bày tấm lòng họ và giải đáp thắc mắc của họ. Họ xúc động đến nỗi dẫn anh em mình đến với Ngài. Anh-rê dẫn Si-môn, Giăng dẫn Gia-cơ.
Họ thật là những người chăn giữ anh em mình! (Sa 4:9). Mỗi khi bạn gặp Anh-rê trong Phúc-âm Giăng, ông đều đưa một ai đó đến với Chúa Giê-xu, người anh, cậu bé với năm cái bánh và hai con cá (Gi 6:8), những người Gờ-réc muốn gặp Chúa Giê-xu (Gi 19:20-21). Bài giảng của Anh-rê không được ghi chép lại, nhưng chắc hẳn ông đã giảng những bài học kỳ diệu bằng hành động của người thu phục linh hồn tội nhân!
Anh-rê làm chứng với Si-môn rằng: “Chúng ta đã gặp Đấng Mê-si-a”. “Mê-si-a” là từ Hê-bơ-rơ có nghĩa là “được xức dầu”, tiếng Hy-lạp có nghĩa “Đấng Christ”. Đối với dân Do-thái, danh ấy được xem như “Con của Đức Chúa Trời” (Mat 26:63-64; Mac 14:61-62; Lu 22:67-70). Trong Cựu-ước, các tiên tri, thầy tế lễ và các vua được xức dầu để biệt riêng ra cho công tác đặc biệt của Đức Chúa Trời. Các vua được người ta gọi là “kẻ chịu xức dầu của Đức Chúa Trời” (ISa 26:11; Thi 89:20). Vì vậy, khi người Do-thái nói đến Đấng Mê-si-a, họ nghĩ về một vị vua sẽ đến giải phóng họ và lập vương quốc mới.
Các giáo sư Do-thái bối rối, chẳng biết Đấng Mê-si-a sẽ làm gì. Một số người xem Ngài là “của lễ chuộc tội” (như trong Es 53:1-12), những người khác xem Ngài như vị vua vinh hiển (Es 9:1-20; Es 11:1-16). Chúa Giê-xu phải giải thích cho cả những môn đệ Ngài rằng thập tự giá phải đến trước mão triều vinh hiển, Ngài phải chịu thương khó trước khi bước vào sự vinh hiển (Lu 24:13-35). Chúa Giê-xu có thật là Đấng Mê-si-a hay không? Đây quả là một thách đố gay gắt đối với dân Do-thái thời bấy giờ (Gi 7:26,40-44; Gi 9:22; Gi 10:24).
Việc gặp Chúa Giê-xu đã thay đổi đời sống Si-môn (Phi-e-rơ) ông được gọi bằng một tên mới, tiếng Gờ-réc là “Phi-e-rơ”, tiếng Aramaic là Sê-pha. Cả hai tên đều có nghĩa là “đá”. Không dễ gì thay đổi được một Si-môn yếu đuối thành “đá”, nhưng Chúa Giê-xu đã làm điều diệu kỳ ấy! “Ngươi là... Ngươi sẽ được gọi là...”, đó là lời khích lệ lớn cho những ai tin nơi Chúa Giê-xu. Thật vậy, Ngài là Đấng ban cho chúng ta “quyền phép trở nên con cái Đức Chúa Trời” (Gi 1:12).
Đáng chú ý là Anh-rê và Giăng tin nhận Chúa Giê-xu qua bài giảng mạnh mẽ của Giăng Báp-tít. Phi-e-rơ và Gia-cơ đến với Chúa nhờ sự quan tâm chăm sóc của anh em mình. Sau đó, Chúa Giê-xu cũng bắt phục được Phi-líp. Phi-líp lại làm chứng và dẫn Na-tha-na-ên đến với Chúa Giê-xu. Kinh nghiệm của mỗi người khác nhau, bởi Đức Chúa Trời sử dụng những phương tiện khác nhau để đem tội nhân đến với Đấng Christ. Điều quan trọng là chúng ta phải tin nhận Chúa Giê-xu và dẫn dắt người khác đến với Ngài.
6. Vua dân Y-sơ-ra-ên (Gi 1:43-49)
Chúa Giê-xu kêu gọi Phi-líp cách đặc biệt. Phi-líp tin nhận Chúa và đi theo Ngài.Chúng ta không biết Phi-líp đã dọn lòng mình ra sao, vì Đức Chúa Trời luôn chuẩn bị cho một người trước khi Ngài kêu gọi người ấy. Chúng ta biết chắc Phi-líp bày tỏ niềm tin khi ông chia sẻ với người bạn Na-tha-na-ên.
Gi 21:2 cho biết có ít nhất bảy môn đệ của Chúa làm nghề chài lưới, gồm cả Na-tha-na-ên. Ngư phủ là những người rất dạn dĩ và kiên trì với công việc, dù việc ấy khó khăn đến đâu. Vậy mà Na-tha-na-ên lại bắt đầu bằng sự nghi ngờ: ông cho rằng không có điều gì đáng giá đến từ Na-xa-rét. Chúa Giê-xu được sinh ra ở thành Bết-lê-hem, nhưng Ngài lớn lên ở Na-xa-rét và chịu sự ô nhục ấy (Mat 2:19-23). Để người ta gọi là “người Na-xa-rét” (Công 24:5) đồng nghĩa với việc bị khinh ghét và chối bỏ.
Khi Na-tha-na-ên nghi ngờ và biện luận, Phi-líp lặp lại lời của Chúa Giê-xu: “Hãy đến xem” (Gi 1:39). Sau đó, Chúa cũng mời gọi: “Hãy đến cùng ta mà uống” (Gi 7:37) và “Hãy lại mà ăn” (Gi 21:12). “Hãy đến” là lời mời quan trọng của ân điển của Đức Chúa Trời.
Khi đến với Chúa Giê-xu, Na-tha-na-ên khám phá rằng Chúa Giê-xu đã biết rõ về ông từ trước. Thật đáng xúc động! Khi gọi Na-tha-na-ên là “người Y-sơ-ra-ên thật...không có điều dối trá”, Chúa Giê-xu muốn nói đến Gia-cốp tổ phụ dân Do-thái, là người đã dùng sự dối trá để lừa anh, lừa cha và lừa ông gia của mình. Tên Gia-cốp được đổi thành “Y-sơ-ra-ên”, nghĩa là “vật lộn cùng Đức Chúa Trời”. Chi tiết về “cái thang của Gia-cốp” ở Gi 1:51 xác nhận về điều này.
Khi Chúa Giê-xu bày tỏ những điều Ngài biết về Na-tha-na-ên, nơi ông ở, việc ông làm, những điều này đủ để khiến ông tin Chúa Giê-xu thật sự là “Con Đức Chúa Trời, Vua Y-sơ-ra-ên”. Ông có một kinh nghiệm giống với người đàn bà Sa-ma-ri bên giếng nước. “Khi Ngài (Đấng Mê-si-a) đã đến, sẽ rao truyền mọi việc cho chúng ta... hãy đến xem một người đã bảo tôi mọi điều tôi đã làm” (Gi 4:25,29). Việc bày tỏ tấm lòng mình cũng là việc nên phải làm trong Hội thánh (ICo 14:23-35).
Khi Phi-líp làm chứng cho Na-tha-na-ên, ông đưa ra chứng cớ về Môi-se và các tiên tri (Gi 1:45). Có lẽ Chúa Giê-xu đã trưng dẫn nhanh chóng cho Phi-líp biết về những lời tiên tri Cựu-ước có liên quan đến Đấng Mê-si-a, như Ngài đã trưng dẫn cho hai môn đệ ở làng Em-ma-út (Lu 24:13). Kết hợp lời chứng của cá nhân với Lời Đức Chúa Trời, đó luôn là cách làm chứng tốt chúng ta nên làm.
“Vua Y-sơ-ra-ên” là danh hiệu quen thuộc chỉ về Đấng Mê-si-a, Đấng được xức dầu, vì các vua luôn là những người được Đức Chúa Trời xức dầu (Thi 2:6,7). Khi Chúa thi hành chức vụ trên đất, có một thời điểm dân chúng muốn tôn Ngài làm Vua, nhưng Ngài từ chối (Gi 6:15) Ngài tỏ mình là Vua và Ngài xác nhận điều này với Phi-lát (Gi 18:33-37).
Một số người cho rằng Na-tha-na-ên và Ba-thê-lê-my là một. Giăng chưa hề nhắc đến Ba-thê-lê-my trong Phúc Âm, nhưng ba tác giả Phúc-Âm còn lại kể tên Ba-thê-lê-my nhưng không nhắc đến Na-tha-na-ên (Mat 10:3; Mac 3:18; Lu 6:14). Vì vậy, có thể hai người này đi đôi với nhau cùng đồng công với nhau. Thời bấy giờ, nếu một người có hai tên cũng là việc bình thường.
7. Con Người (Gi 1:50-51)
“Con người” là một trong những danh Chúa thích dùng để chỉ về Ngài. Danh này được nhắc đến 83 lần trong các sách Phúc-Âm và ít nhất 13 lần trong Phúc Âm Giăng. Danh này chỉ về cả thần tình và nhân tính của Chúa Giê-xu. Sự hiện thấy trong Da 7:13 bày tỏ về “Con Người” trong bối cảnh là Đấng Mê-si-a quyền phép, và Chúa Giê-xu cũng sử dụng danh hiệu này theo cách ấy (Mat 26:61).
Là Con Người, Chúa Giê-xu như nhịp cầu nối hằng sống giữa trời và đất. Đây là điều giải thích về việc Chúa nói về “cái thang của Gia-cốp” trong Sa 28:10-22. Gia-cốp một người tha phương ngỡ mình là kẻ cô độc, nhưng Đức Chúa Trời đã sai thiên sứ đến giúp đỡ ông. Đấng Christ là “cái thang” của Đức Chúa Trời bắc từ trời xuống đất. “Chẳng bởi ta thì không ai được đến cùng Cha” (Gi 14:6). Trong Phúc-âm Giăng, bạn sẽ thấy Chúa Giê-xu luôn nhắc dân sự Ngài biết rằng Ngài là Đấng từ trời đến. Dân Do-thái cũng biết rằng “Con Người” là danh hiệu dành cho Đấng Mê-si-a của họ (Gi 12:34).
Vào cuối ngày thứ tư, Chúa Giê-xu có sáu người tin theo Ngài. Họ chính là những môn-đệ Ngài. Lúc đó, họ chưa dứt khoát “bỏ mọi sự mà theo Ngài”. Nhưng họ tin Ngài và kinh nghiệm quyền năng Ngài. Trong suốt ba năm, họ đã trưởng thành trong đức tin, biết nhiều hơn về Chúa Giê-xu, và thay thế chức vụ Ngài trên đất hầu cho Đạo Ngài được rao ra cho toàn nhân loại.
Chúa Giê-xu Na-xa-rét là Đức Chúa Trời đến trong xác thịt. Khi Phi-líp gọi Ngài “Con của Giô-sép” ông không có ý chối bỏ sự giáng sinh của Ngài qua trinh nữ Ma-ri hay thần tính của Ngài. Đó chỉ là sự xác nhận về mặt luật pháp, vì một người Do-thái được người ta biết qua tên người cha (Gi 6:42). Cả đoạn này nói lên chứng cớ rằng: Chúa Giê-xu Na-xa-rét là Đức Chúa Trời đến trong xác thịt!
Đức Chúa Trời Ở Đây!
2. BÀI HỌC VỀ CHÚA GIÊ-XU (Gi 2:1-25)
Sáu môn đệ tin nhận Chúa bắt đầu giai đoạn đồng hành với Ngài suốt đời và trước hết họ phải học về Chúa Giê-xu nhiều hơn. Khi đọc Phúc-Âm, chúng ta thường cho rằng những sự kiện ấy là việc đương nhiên. Nhưng đối với các môn đệ thời bấy giờ, mỗi sự kiện mỗi biến cố mới xảy ra từng ngày từng giờ thật kỳ diệu khiến họ không thể hiểu nổi. Trong đoạn 1, Giăng ghi lại ba sự mạc khải kỳ diệu về Chúa Giê-xu.
1. Sự vinh hiển của Ngài (Gi 2:1-12)
“Ngày thứ ba” nghĩa là ba ngày sau khi Na-tha-na-ên được Chúa gọi (Gi 1:45-51). Ngày thứ tư được Giăng ghi lại (Gi 1:19,29,35,43), có một đám cưới được tổ chức vào ngày thứ bảy của tuần “lễ tạo dựng mới”. Qua Phúc-Âm, Giăng chứng minh rằng Chúa sống theo một giờ giấc thiêng liêng trong ý muốn Cha trên trời.
Theo phong tục Do-thái các trinh nữ lấy chồng vào thứ tư, còn các góa phụ lấy chồng vào thứ năm. Trong “ngày thứ bảy” thuộc tuần lễ đặc biệt này của Giăng, Chúa muốn được nghỉ ngơi giống như Đức Chúa Trời nghỉ công việc Ngài vào thứ bảy (Sa 2:1-3).
Nhưng tội lỗi đã làm gián đoạn sự yên nghỉ Sa-bát của Đức Chúa Trời, vì vậy thật cần thiết cho cả Cha và Con làm việc. Thật ra Giăng đã tường thuật lại hai phép lạ cụ thể Chúa Giê-xu quyết định thực hiện vào ngày Sa-bát (Gi 5:1-47; Gi 9:1-41).
Ở tiệc cưới này, chúng ta sẽ thấy Chúa Giê-xu trong ba vai trò: Vị khách, Người con và Vị chủ tiệc.
(1). Chúa Giê-xu trong vài trò: Vị khách mời (Gi 2:1-2)
Chúa chúng ta không phải là ẩn sĩ như Giăng Báp-tít (Mat 11:16-19). Ngài nhận lời mời đến dự những buổi tiệc xã giao, dù kẻ thù Ngài từng lợi dụng cơ hội này để tố cáo Ngài (Lu 15:1-2). Chúa tiếp cận những từng trải của cuộc sống và thánh hoá chúng bởi sự hiện diện của Ngài. Cặp vợ chồng mới này thật khôn ngoan khi mời Chúa Giê-xu dự tiệc cưới của họ!
• Đi cùng Chúa có mẹ Ngài và sáu môn-đệ.
Có lẽ sự hiện diện của bảy người này đã tạo ra tình trạng khó xử? Nếu vậy, đây quả là một tiệc cưới “khiêm nhường”. Chúng ta có cố tin rằng gia đình trên đất của Chúa Giê-xu không giàu có cho lắm, và dường như bạn bè họ cũng không khá giả. Việc thiếu rượu có lẽ do chi phí của buổi tiệc rất thấp.
Chúa Giê-xu và các môn-đệ được mời dự tiệc vì bà Ma-ri hay vì Na-tha-na-ên? (Gi 21:2). Lúc ấy, Chúa Giê-xu chưa được nhiều người biết đến, Ngài cũng chưa thực hiện phép lạ nào, không phải Ngài được mời vì người ta biết đến danh Ngài, có lẽ vì Ngài có mối liên hệ với bà Ma-ri.
(2). Chúa Giê-xu trong vai trò là: Con (Gi 2:3-5)
Tiệc cưới của người Do-thái thường kéo dài một tuần lễ, nên chú rể phải chuẩn bị mọi thứ đầy đủ, Vì nếu đột nhiên thức ăn hoặc rượu hết, sẽ gây sự lúng túng khó xử. Gia đình nào phạm vào cách tiếp khách vụng về như vậy, có thể bị phạt tiền! Vì vậy, việc hết rượu hẳn là một tổn thất đắt giá về mặt tài chính cũng như giao tế.
Vì sao bà Ma-ri nói với Chúa Giê-xu về vấn đề hết rượu? Phải chăng bà muốn Ngài làm điều gì đó cách đặc biệt để đáp ứng nhu cầu về rượu? Hẳn bà đã biết Ngài là ai, dù chưa nói ra lẽ thật kỳ diệu ấy cho người khác biết. Có lẽ bà rất thân với cô dâu hoặc chú rể nên mới có sự quan tâm này. Bà mong bữa tiệc được tổ chức chu đáo, nên biết rõ rượu đã cạn. Cũng có thể bà là người lo việc coi sóc và phục vụ cho bữa tiệc.
Bà Ma-ri không bảo Chúa Giê-xu phải làm gì. Bà chỉ cho Ngài biết nan đề. (Hãy đối chiếu với cách Ma-ri và Ma-thê cho Chúa Giê-xu biết tin La-xa-rơ bị bịnh Gi 11:3). Câu trả lời của Chúa hơi bất ngờ, thậm chí có vẻ gay gắt, nhưng không phải sử dụng cho hoàn cảnh này. ”Hỡi đàn bà kia”, đó là cách gọi lịch sự dành cho bà Ma-ri (Gi 19:26 Gi 20:13) và câu nói Ngài chỉ hàm ý: “Sao mẹ kéo con vào vấn đề này?” Ngài muốn cho mẹ Ngài hiểu rằng Ngài không còn dưới quyền giám sát của bà nữa (có lẽ Giô-sép đã qua đời), nhưng Ngài sẽ làm mọi điều theo ý Cha trên trời.
Điều này đã được bày tỏ trong những năm trước đó (Lu 2:40-52).
Vào lúc này, Giăng giới thiệu một chi tiết quan trọng trong cuộc đời Chúa Giê-xu, đó là ý niệm về “giờ” Ngài sống theo giờ giấc ở trên trời” được chính Đức Chúa Trời lập ra cho Ngài (Gi 7:30; Gi 8:20; Gi 12:23; Gi 13:1; Gi 17:1 cũng hãy xem lời Chúa Giê-xu phán trong Gi 11:9-10). Khi nghiên cứu Phúc-âm Giăng, bạn hãy chú ý xem khái niệm về “giờ” diễn biến ra sao.
Lời bà Ma-ri nói với các kẻ hầu bàn cho thấy bà muốn Chúa Giê-xu làm điều gì đẹp ý Ngài, và tin rằng Ngài sẽ làm điều chính đáng. Vâng theo những lời bà Ma-ri nói, chúng ta sẽ là những người khôn ngoan. Đáng chú ý chính là Chúa Giêu-xu, chớ không phải bà Ma-ri. Ngài đã ra lệnh cho các hầu bàn và giải quyết nan đề.Điều bà Ma-ri nói, không phải về chính bà, nhưng về Chúa Giê-xu.
(3). Chúa Giê-xu trong vai trò: Vị chủ tiệc (Gi 2:6-12)
Phép lạ đầu tiên của Chúa Giê-xu không phải là sự kiện gây chú ý cho mọi người. Bà Ma-ri, các môn đệ và những kẻ hầu bàn biết sự kiện kỳ diệu này, nhưng không ai trong bàn tiệc biết rằng phép lạ đã xảy ra. Phép lạ đầu tiên của Chúa xảy ra thầm lặng tại một bữa tiệc cưới, khác hẳn với phép lạ cuối cùng của Ngài (Gi 11:1-46) xảy ra sau một đám tang trước mặt công chúng.
• Mỗi ché đá có thể chứa được 90 lít nước.
Tuy nhiên, chúng ta không rõ rất cả 6 ché nước có biến thành rượu hay không, chỉ biết rằng: khi những kẻ hầu bàn rót nước ra để phục vụ khách, nước ấy đều biến thành rượu. Chất lượng rượu mới này tuyệt vời đến nỗi kẻ coi tiệc ngợi khen và dĩ nhiên gia đình chú rể rất hãnh diện về điều đó.
Đây là “phép lạ thứ nhất” của Chúa Giê-xu, bác bỏ lời đồn đại cho rằng Ngài làm phép lạ từ khi còn là một “hài nhi”! Đó là chỉ là những chuyện hoang đường mà người hiểu biết Kinh Thánh không thể chấp nhận.
• Phép lạ cũng tác động đến các môn-đệ.
Nó bày tỏ vinh hiển của Chúa (Gi 1:14) và khiến nền tảng đức tin họ vững vàng hơn. Tuy phép lạ chưa hẳn chứng minh Chúa Giê-xu là Con Đức Chúa Trời (IITês 2:9-10), nhưng ảnh hưởng của nhiều phép lạ chắc hẳn khiến họ tin nơi thần tính Ngài. Các môn-đệ phải trải qua những tháng ngày theo Chúa mới biết nhiều hơn về Ngài.
Ngài còn thực hiện nhiều phép lạ kỳ diệu hơn, chớ không chỉ là phép lạ đáp ứng nhu cầu của một gia đình đang tiếp đãi khách khác với ba sách Phúc-Âm còn lại, Phúc-âm Giăng muốn chia sẻ ý nghĩa thuộc linh sâu xa của những việc Chúa làm. Vì vậy, mỗi phép lạ tựa như một “bài giảng sống động”. Bạn hãy cẩn thận, đừng “thuộc linh hóa” những sự kiện này, kẻo chúng mất đi ý nghĩa về lịch sử, nhưng chúng ta cũng không nên để lịch sử ràng buộc mình đến nỗi không nhìn thấy câu chuyện nói về “chính Ngài” (theo như A. T. Dierson thường nói).
Để bắt đầu, chúng ta thấy từ Giăng dùng trong sách không phải là dunamis, nhấn mạnh về quyền năng, nhưng Semeion có nghĩa là dấu hiệu (hoặc dấu lạ). Vậy dấu lạ là gì? Dấu lạ là một điều gì đó hướng chúng ta vượt khỏi chính nó đến một điều gì đó vĩ đại hơn. Tin nơi việc làm của Chúa Giê-xu vẫn chưa đủ, con người phải tin Ngài và tin Đức Chúa Trời là Đấng đã sai Ngài đến (Gi 5:14-24).
Đây là lý do Chúa Giê-xu thường giảng dạy sau khi làm phép lạ để giải thích phép lạ đó. Trong đoạn Gi 5:1-47, việc chữa lành người đau bại vào ngày Sa-bát đã công bố cho mọi người biết về thần tính Ngài: “Chúa của ngày Sa-bát”.
Tiếp theo phép lạ nuôi 5.000 người là bài giảng về “Bánh của sự sống” (Gi 6:1-71). Nếu Chúa giảng dạy sau khi hóa nước thành rượu, bạn nghĩ xem Ngài sẽ nói gì? Trước tiên, có lẽ Ngài sẽ nói với mọi người rằng niềm vui của thế gian tạm thời và chóng qua, nhưng niềm vui Ngài ban cho sẽ luôn tươi mới và luôn khiến con người thỏa lòng. (Trong kinh Thánh, rượu là dấu hiệu của sự vui mừng. Cac 9:13; Thi 104:15).
Trước tiên thế gian thường cống hiến những gì tốt nhất, nhưng một khi bạn đã mắc câu rồi, mọi sự bắt đầu trở nên tồi tệ. Nhưng Chúa Giê-xu vẫn tiếp tục ban cho chúng ta điều tốt nhất cho đến kỳ chúng ta hưởng phước hạnh kỳ diệu nhất trong Vương quốc vĩnh hằng của Ngài (Lu 22:18). Chúa muốn cho dân Y-sơ-ra-ên của Ngài biết một thông điệp đặc biệt ở đây.
Trong Cựu-ước, dân này được xem như “được gả” cho Đức Chúa Trời nhưng đã bất trung trong giao ước hôn nhân (Es 54:5,6; Gie 31:32; Os 2:2). Rượu đã hết, nên dân Y-sơ-ra-ên giống như sáu ché đá rỗng! Họ để dành nước tẩy sạch bên ngoài, nhưng không có gì để tẩy sạch bề trong và cũng không có sự vui mừng. Qua phép lạ này, Chúa chúng ta đã khiến những thứ cạn kiệt trở nên tràn trề, thất vọng nên vui mừng và khiến những gì chỉ có bề ngoài trở nên sâu sắc.
Khi Giăng đề cập đến ngày thứ ba (Gi 2:1), có lẽ ông muốn cho chúng ta một gợi ý về sự sống lại của Chúa. Ngài có thể ban cho chúng ta mọi phước hạnh ấy, bởi sự hy sinh của Ngài trên thập tự giá và sự sống lại từ cõi chết (Gi 2:19).
Thật thú vị khi phép lạ đầu tiên của Môi-se là một tai vạ: “biến nước thành huyết” (Xu 7:19), nói về sự đoán phạt. Nhưng phép lạ đầu tiên của Chúa chúng ta bày tỏ ân điển. Phép lạ này nói lên một bài học thực tiễn về sự hầu việc Đức Chúa Trời. Nước đã biến thành rượu, vì các đầy tớ đồng công với Chúa Giê-xu và vâng theo lời dạy của Ngài. Trong Phúc-âm Giăng có nhiều phép lạ được thực hiện với sự đồng công của con người và Đức Chúa Trời: nuôi 5.000 người (Gi 6:1-15), chữa lành người mù từ lúc mới sinh (Gi 9:1-41), khiến La-xa-rơ sống lại (Gi 11:1-46). Dù chúng ta phân phát bánh, rửa sạch bùn đất hay lăn hòn đá khỏi cửa mộ, chúng ta cũng là những người hỗ trợ cho Chúa thực hiện phép lạ.
Thật ý nghĩa khi những kẻ hầu bàn biết rõ nguồn gốc của loại rượu “đặc biệt” này (Gi 2:9). Lúc Chúa Giê-xu chữa lành con trai quan thị vệ (Gi 4:46-54), chính những đầy tớ chứng kiến sự mầu nhiệm ấy. Chúng ta không chỉ là tôi tớ Ngài, mà còn là bạn hữu Ngài nên chúng ta biết việc Ngài làm (Gi 15:15).
• Rượu là thức uống thông thường của dân thời đó.
Vì vậy, chúng ta đừng lấy phép lạ này ra tranh cãi về việc uống rượu hôm nay. Một người kia có thói quen uống rượu đã nói với tôi rằng: “Cuối cùng, Chúa Giê-xu đã biến nước thành rượu!” Tôi đáp: “Nếu anh xem Chúa là gương để anh uống rượu, sao anh không học theo gương Ngài ở mọi lãnh vực?” Rồi tôi đọc cho anh ta nghe Lu 22:18. Câu này xác định rõ: giờ đây trên thiên đàng, Chúa Giê-xu là Đấng “không uống rượu”!
Những tín hữu tin kính hôm nay nên suy ngẫm những câu Kinh Thánh như ICôr 8:9; ICôr 10:23 và ICôr 10:31 trước khi kết luận rằng việc dùng thức uống có chất rượu có phải là điều khôn ngoan hay không. Tôi nhớ đến người thợ mỏ kia trước đây say sưa nhưng nay đã thay đổi và trở thành một chứng nhân mạnh mẽ cho Chúa. Một người bạn hỏi đố ông rằng: “Anh có tin rằng Chúa Giê-xu đã biến nước thành rượu không?” Người thợ mỏ đáp: “Dĩ nhiên là tôi tin. Ở nhà tôi, Ngài đã biến rượu thành những tiện nghi, quần áo đẹp và thực phẩm cho con cái tôi”.
Cũng nên biết rằng dân Do-thái luôn pha loãng rượu với nước, thường là ba phần nước với một phần rượu. Kinh Thánh không bảo chúng ta kiêng ăn uống hoàn toàn, nhưng đặc biệt khuyên chúng ta đừng say sưa.
2. Sự sốt sắng của Ngài (Gi 2:13-22)
Chúa Giê-xu, người nhà Ngài cùng các môn đệ ở tại thành Ca-bê-na-um vài ngày. Sau đó Ngài lên thành Giê-ru-sa-lem dự lễ Vượt Qua. Mỗi người nam Do-thái buộc phải dự ba kỳ lễ hàng năm tại Thành Thánh: lễ Bánh Không Men, lễ Bảy Tuần và lễ Lều Tạm (Phu 16:16). Những lễ này được nhắc đến trong Phúc-âm Giăng với tên gọi: lễ Vượt Qua (Gi 2:13; Gi 6:4; Gi 12:1), lễ Lều Tạm (Gi 7:2) và lễ Khánh Thành Đền Thờ (Gi 10:22). Một lễ không có tên gọi ở Gi 5:1 có thể là lễ Phu-rim (Exo 9:26,31).
Dù Chúa không đồng tình với những hình thức lễ nghi tự tạo của người Pha-ri-si, Ngài vẫn vâng theo mọi điều của luật pháp và trung tín giữ trọn luật pháp. Qua sự sống và sự chết của Ngài Ngài đã làm trọn luật pháp hầu cho những kẻ tin Ngài hôm nay chẳng bị mệt mỏi bởi “cái ách” nặng nề đó (Công 15:10).
Chúa Giê-xu bày tỏ sự sốt sắng của Ngài đối với Đức Chúa Trời trước tiên qua hành động dọn dẹp đền thờ (Gi 2:13-17). Các thầy tế lễ lập mua bán đổi bạc này để sinh lợi, cũng như bán súc vật làm của lễ. Dĩ nhiên “phiên chợ tôn giáo” này khởi đầu từ mục đích phục vụ người Do-thái từ xa đến thờ phượng nơi đền thờ, nhưng dần dần sự tiện lợi biến thành việc mua bán, chớ không phải là sự phục vụ.
Thật là một bi kịch khi việc mua bán này được thực hiện ngay trong khu vực dành cho người ngoại trong đền thờ, là nơi dân Do-thái đáng phải gặp gỡ người ngoại và cho họ biết về một Đức Chúa Trời chân thật. Người ngoại nào muốn tìm kiếm lẽ thật có lẽ chẳng tìm được gì giữa những kẻ buôn bán đội lốt tôn giáo trong đền thờ.
Chúa chợt xuất hiện trong đền thờ và làm cho sạch nơi này. Ngài không có ý hủy hoại tài sản của ai (ví dụ như Ngài đã không phóng thích những bồ câu). Nhưng Ngài muốn bày tỏ Ngài là Đấng có quyền điều khiển. Đền thờ là nhà Cha Ngài, Ngài không muốn những chức sắc trong đền thờ làm ô uế nhà Cha Ngài, Ngài không muốn những chức sắc trong đền thờ làm ô uế nhà Cha bởi việc mua bán kiếm lợi của họ.
Tình trạng của đền thờ cho thấy rõ tình trạng thuộc linh của dân tộc này. Tôn giáo của họ chỉ là một lễ nghi nhàm chán dưới sự điều khiển của những con người sống theo thế gian chỉ chạy theo danh vọng và vật chất. Không những rượu đã cạn tại bữa tiệc, nhưng vinh hiển cũng đã lìa khỏi đền thờ.
Khi chứng kiến sự sốt sắng mạnh mẽ của Chúa, các môn đệ nhớ lại lời Thi 69:9 “Sự sốt sắng về nhà Chúa tiêu nuốt tôi?” Thi 69:1-36 là đoạn nói về Đấng Mê-si-a được trích dẫn nhiều lần trong Tân-ước: câu 4 (Gi 15:25), câu 8 (Gi 7:3-5) câu 9 (Gi 2:17; Rô 15:3) câu 21 (Mat 27:34,48) và câu 22 (Rô 11:9-10).
Vẫn còn những người tin kính trong Y-sơ-ra-ên, họ là những người yêu mến Đức Chúa Trời và tôn trọng đền thờ Ngài (Lu 1:5-22; Lu 2:25-38), nhưng hầu hết các chức sắc đền thờ đều là những người chăn chiên giả chỉ hà hiếp dân sự mà thôi. Khi dẹp sạch đền thờ, Chúa Giê-xu đã “tuyên chiến” với các chức sắc đền thờ giả hình (Mat 23:1-39), và điều này cuối cùng đã dẫn đến sự chết của Ngài. Thật vậy, sự sốt sắng về nhà Đức Chúa Trời đã “tiêu nuốt” Chúa Giê-xu!
Ngài cũng bày tỏ lòng sốt sắng qua hành động từ bỏ sự sống mình (Gi 2:18-22). Dĩ nhiên, các chức sắc đền thờ có lý của họ khi yêu cầu Chúa bày tỏ quyền năng Ngài. Dù sao, họ là những người bảo vệ Do-thái giáo, nên có quyền dò xét bất cứ tiên tri nào vừa mới được biết đến. “Người Giu-đa đòi phép lạ” (ICôr 1:22). Suốt giai đoạn Chúa thi hành chức vụ trên đất, các chức sắc này thường yêu cầu Ngài cho họ xem phép lạ. Ngài chỉ tỏ cho họ “dấu lạ của đấng tiên tri Giô-na” (Mat 12:39). Dấu lạ này là sự chết, chôn và sống lại.
Chúa dùng hình ảnh đền thờ để hàm chứa lẽ thật này. “Hãy phá đền thờ này đi, trong ba ngày ta sẽ dựng lại!” (Gi 2:19). Vốn mù lòa về thuộc linh nên những người nghe lời này đều hiểu sai ý Ngài. Qua Phúc-âm Giăng, bạn sẽ thấy người ta hiểu sai lẽ thật thuộc linh và cắt nghĩa theo cách của con người (Gi 3:4; Gi 4:11; Gi 6:52). Đền thờ được khởi công xây dựng từ năm 20 TC, mãi đến năm 64 SC mới hoàn tất. Làm sao con người có thể dựng lại trong ba ngày?
Dĩ nhiên, lời nói này là lời tiên tri về sự chết và sống lại của Ngài. Các môn đệ nhớ lại điều này sau khi Ngài từ kẻ chết sống lại. Kẻ thù Ngài cũng nhớ lời này và sử dụng nó khi xét xử Ngài (Mat 26:59-61). Một số người cũng đem lời này ra chế nhạo Ngài khi Ngài sắp tắt hơi trên thập tự giá (Mat 27:40).
Qua Phúc-Âm này, Giăng phác hoạ những bức tranh sinh động về sự chết của Đấng Christ. Trước tiên là hình ảnh Chiên Con bị giết (Gi 1:29), bày tỏ rằng sự chết của Ngài sẽ là sự chuộc tội cho mọi người. Bức tranh kế tiếp là sự huỷ phá đền thờ (Gi 2:19) cho thấy sau sự chết đau đớn là sự phục sinh vinh hiển. Bức tranh thứ ba là hình ảnh con rắn bị treo lên (Gi 3:14), trích trong Dan 21:5-9.
Ngài bị kể là tội lỗi vì chúng ta (IPhi 2:24), vui lòng phó sự sống mình (Gi 10:11-18)vì chúng ta. Người chăn chiên hy sinh sự sống vì bầy chiên mình. Sau cùng, bài học về sự gieo giống (Gi 12:20-25) cho chúng ta biết sự chết của Ngài sẽ quy vinh hiển cho Đức Chúa Trời. Dưới mắt con người, sự chết và chôn của Ngài dường như một sự thất bại, nhưng sau cùng Đức Chúa Trời đã khiến điều ấy trở nên sự đắc thắng!
Đền thờ là yếu tố quan trọng của Do-thái giáo, vì đó là nơi Đức Chúa Trời hiện diện. Mọi lễ nghi và của lễ diễn ra giữa đền thờ. Khi Chúa Giê-xu phán rằng đền thờ quý báu của họ sẽ bị phá huỷ, đương nhiên họ phản ứng cách giận dữ. Nếu thân thể Chúa là đền thờ, vậy đền thờ của người Do-thái không cần thiết nữa. Qua lời phán đầy ẩn ý này, Chúa thật sự báo trước về kỳ cuối cùng của những hình thức tôn giáo này.
Đây là một trong những mục đích Giăng viết Phúc-Âm: hình thức luật pháp đã chấm dứt, kỳ “ân điển và chân lý” đã đến bởi Chúa Giê-xu. Ngài chính là của lễ mới (Gi 1:29) và đền thờ mới (Gi 2:19). Giăng sẽ cho chúng ta biết rằng sự thờ phượng mới sẽ do sự trung thực bên trong, chớ không do vị trí địa lý bên ngoài (Gi 4:19-24).
3. Sự hiểu biết của Ngài (Gi 2:23-25)
Khi ở Giê-ru-sa-lem để dự lễ Vượt Qua, Chúa Giê-xu đã làm nhiều phép lạ không được kể chi tiết trong các sách Phúc-Âm. Có lẽ đó là những phép lạ khiến Ni-cô-đem phải để tâm đến (Gi 3:2). Bởi những phép lạ đó, nhiều người xưng nhận mình tin nơi Ngài, nhưng Ngài không chấp nhận sự xưng nhận của họ. Dù họ nói gì hay ai nói về họ, Ngài cũng không nhận lời chứng của con người. Vì sao? Là Đức Chúa Trời Ngài hiểu rõ lòng mỗi người.
Từ “tin” ở Gi 2:23 và “phó thác” ở Gi 2:24 là những từ đồng nghĩa theo tiếng Hy-lạp. Những người này tin Chúa Giê-xu nhưng Ngài không tin họ! “Họ là những người tin theo nhưng chưa được cứu”. Hưởng ứng với một phép lạ là một vấn đề, còn “phó thác” chính mình cho Chúa Giê-xu và sống trong Đạo Ngài lại là một việc hoàn toàn khác (Gi 8:30-31).
Không phải Giăng nghi ngờ tầm quan trọng của những phép lạ của Chúa, vì mục đích ông viết Phúc-Âm là để ghi lại những dấu lạ này, hầu giục lòng độc giả tin cậy Chúa Giê-xu để được sự sống đời đời (Gi 20:30-31). Dù vậy, qua Phúc-Âm này, Giăng bày tỏ rằng nếu chỉ tin nơi phép lạ, điều ấy chưa đủ để con người được cứu rỗi.Chứng kiến phép lạ và tin theo là một khởi đầu tuyệt vời, nhưng ngay cả các môn đệ Chúa có khởi điểm như thế cũng phải trưởng thành hơn trong đức tin mình (so sánh Gi 2:11 với Gi 2:22).
Qua Phúc-âm Giăng, bạn sẽ thấy dân Do-thái chia phe đảng vì ý nghĩa của những phép lạ này (Gi 9:16 Gi 11:45-46). Cũng những phép lạ ấy, đã khiến Ni-cô-đem đến với Chúa, còn các quan trưởng lại muốn giết Ngài. Thậm chí họ còn quả quyết Ngài làm được phép lạ do quyền lực Sa-tan! Những phép lạ của Chúa là chứng cớ về địa vị Con Thánh của Ngài (Gi 5:36), nhưng cũng là những thử nghiệm phơi bày tấm lòng dân sự (Gi 12:37). Cũng những phép lạ ấy cùng lúc mở mắt một số người, nhưng lại khiến những kẻ khác mù loà hơn (Gi 9:39-41).
Thật ý nghĩa khi Chúa liên hệ những phép lạ với lẽ thật của thông điệp Ngài. Ngài hiểu rằng lòng người dễ bị lôi cuốn vào những việc gây kích động. 5000 người được Ngài phát lương thực muốn tôn Ngài làm vua, nhưng sau khi nghe Ngài giảng dạy về Bánh của sự sống, họ đều rời bỏ Ngài!
“Ân điển và chân lý bởi Đức Chúa Giê-xu mà đến” (Gi 1:17). Bởi ân điển Chúa Giê-xu nuôi những kẻ đói khát. Bởi lẽ thật Ngài dạy họ Đạo Ngài. Họ chỉ muốn lương thực cho thể xác, chớ không cần lương thực cho tâm linh, nên đã lìa bỏ Ngài.
“Ngài tự hiểu thấu mọi điều trong lòng người ta”, đó là điều được bày tỏ nhiều lần trong Phúc-âm Giăng, Chúa Giê-xu biết rõ cá tính của Si-mê-ôn (Gi 1:42), bản chất của Na-tha-na-ên (Gi 1:46), nói hết mọi việc người đàn bà Sa-ma-ri đã làm trong quá khứ (Gi 4:29). Ngài biết rằng các nhà lãnh đạo Do-thái không hề có lòng kính mến Đức Chúa Trời (Gi 5:42), và sẽ có một môn-đệ giả (Gi 6:64). Ngài nhìn thấy sự ăn năn trong lòng người đàn bà tà dâm (Gi 8:10-11) và âm mưu giết Chúa của kẻ thù Ngài (Gi 8:40). Nhiều lần giảng dạy ở Phòng Cao, Ngài bày tỏ cho các môn đệ biết tư tưởng bên trong cùng những nghi vấn của họ.
Khi theo dõi Phúc-âm Giăng, bạn sẽ thấy Chúa Giê-xu từ ánh sáng rực rỡ trong sự yêu mến của công chúng, Ngài bị đẩy dần vào bóng tối tăm của sự chống nghịch, ruồng bỏ. Ban đầu, người ta dễ dàng chạy theo đám đông để xem Ngài làm phép lạ. Sau đó, lời Ngài đi vào lòng người, kéo theo sự chống đối dẫn đến tranh luận và phe đảng. Không thể có thái độ trung lập, con người phải có sự chọn lựa! Và hầu hết mọi người đều chống nghịch Ngài.
Thật vậy, Chúa Giê-xu biết rõ lòng người. “Nếu các ngươi không thấy phép lạ và điềm lạ, thì các ngươi chẳng tin!” (Gi 4:48). Những ai muốn xem phép lạ Ngài chớ không muốn biết đến Lời, chẳng bao giờ hưởng được sự sống của Ngài. “Thấy mới tin” không phải là phương cách của người tin Chúa (Gi 11:20; Gi 20:29). Trước tiên, chúng ta hãy tin, rồi chúng ta sẽ thấy. Phép lạ chỉ có thể đưa chúng ta đến Đạo Ngài (Gi 5:36-38), nhưng Lời sinh ra đức tin cứu rỗi (Rô 10:17).
Sự hiểu thấu lòng người của Chúa chúng ta là một minh chứng về thần tính của Ngài, vì chỉ có Đức Chúa Trời mới có thể nhìn thấy lòng Người. Đoạn Kinh Thánh ngắn ngủi này cho chúng ta có sự chuẩn bị để hiểu cuộc nói chuyện đầy ý nghĩa của Chúa với Ni-cô-đem, được chép ở đoạn kế tiếp. Ni-cô-đem muốn biết nhiều hơn về Chúa Giê-xu, nhưng cuối cùng ông biết nhiều hơn về con người mình!
3. VẤN ĐỀ CỦA SỰ SỐNG VÀ SỰ CHẾT (Gi 3:1-36)
Benjamin Franklin không chỉ là một chính trị gia, một nhà phát minh lừng lẫy, mà ông còn là một người viết thư danh tiếng và nhận thư từ những nhân vật nổi tiếng khắp thế giới. Ngày kia, ông nhận được một bức thư có thể xem là ý nghĩa nhất mà từ trước đến nay ông chưa hề thấy trên bàn làm việc mình. Đó là thư George Whitefield của nhà truyền đạo người Anh nổi tiếng. Trong thư, Whitefield viết:
“Tôi nhận thấy ông ngày càng nổi tiếng trên thế giới, ông đã có những thành công trong việc khám phá những bí ẩn của điện năng, giờ đây tôi tha thiết nài xin ông hãy chú tâm khám phá bí ẩn của sự tái sinh. Đó là sự nghiên cứu có ý nghĩa và thú vị nhất. Khi đã nắm vững nó rồi, ông sẽ được đền bù công lao mình một cách hào phóng! ”
Sự tái sinh là một trong những chủ đề chính ở Giăng 3. Hơn thế, bạn sẽ thấy Chúa Giê-xu trong ba vai trò khác nhau trong đoạn này: Ngài là Giáo sư (c.1-21), Chàng rể (c.22-30) và Chứng nhân (c.31-36)
1. Chúa Giê-Xu - Vị giáo sư (Gi 3:1-21)
Chúng ta đã xem qua đoạn chuyển tiếp từ Gi 2:23-25 đến Gi 3:1. Ni-cô-đem là người đầu tiên chú ý đến Chúa Giê-xu bởi những phép lạ của Ngài. Ông muốn biết nhiều hơn về Chúa và những lời giáo huấn của Ngài. Bản thân Ni-cô-đem cũng là “Giáo sư của dân Y-sơ-ra-ên” (Gi 3:10), nhưng ông rất tôn trọng Vị Giáo sư đến từ Ga-li-lê.
Ni-cô-đem là người Pha-ri-si, có nghĩa là ông đã sống theo những luật lệ tôn giáo khe khắt nhất. Không phải mọi người Pha-ri-si đều là kẻ giả hình (ai đó có thể suy luận như vậy từ lời quở trách của Chúa Giê-xu chép ở Mat 23:1-39). Chứng cớ cho thấy Ni-cô-dem rất thành thật khi tìm hiểu về lẽ thật. Ông đến với Chúa Giê-xu vào ban đêm, không phải vì sợ kẻ khác nhìn thấy, nhưng có lẽ vì ông muốn có một cuộc nói chuyện thoải mái và yên tĩnh với vị Giáo sư “từ Đức Chúa Trời đến”.Việc Ni-cô-đem sử dụng đại danh từ “chúng tôi” và được Chúa đáp lại bằng “các ngươi” (Gi 3:7) cho thấy Ni-cô-đem đại diện cho những chức sắc tôn giáo. Ông là người có phẩm chất đạo đức cao nhất, ông muốn tìm hiểu sâu hơn về niềm tin. Tuy nhiên vẫn là người rất mù loà thuộc linh.
Để cho Ni-cô-đem biết những điều cơ bản về sự cứu rỗi, Chúa Giê-xu sử dụng 4 hình ảnh minh hoạ khác nhau:
Sự tái sinh (Gi 3:7): Chúa mở đầu bằng hình ảnh quen thuộc, sự sinh ra là một kinh nghiệm của nhiều người. “Sự sinh lại” có nghĩa là sự sinh “từ trên cao”. Dù loài người kinh nghiệm sự sinh ra trên đất, nhưng nếu họ muốn lên trời, họ phải kinh nghiệm sự sinh thuộc linh siêu nhiên từ trên trời.
Một lần nữa chúng ta sẽ thấy sự mù loà của tội nhân: với cương vị là người đứng đầu hay trong nhà hội có tri thức thâm sâu, Ni-cô-đem vẫn không hiểu điều Đấng Christ muốn nói đến! Ngài nói về sự sinh thuộc linh, nhưng Ni-cô-đem chỉ nghĩ đến sự sinh về mặt thuộc thể. Tình trạng của con người khác về sự tái sinh, họ thường bắt đầu bàn luận về nguồn gốc tôn giáo của gia đình họ, chức vị của họ trong Hội Thánh, những lễ nghi tôn giáo và vân vân...
Là Vị Giáo sư đầy kiên nhẫn, Chúa sử dụng lời của Ni-cô-đem để giải thích sâu xa hơn về sự tái sinh. Sự sinh ra từ nước là sự sinh về thể xác (“trở vào lòng mẹ và sinh lần thứ hai”), nhưng được tái sinh là được sinh bởi Đức Thánh Linh. Nếu có cha mẹ để sinh con về thể xác, thì cũng có “cha mẹ” sinh “con thuộc linh”:đó là Thánh Linh của Đức Chúa Trời (Gi 3:5) và lời Đức Chúa Trời. Khi tội nhân tin nhận Chúa, sự sống của Đức Chúa Trời bắt đầu hiện diện.
Chúa không dạy rằng sự tái sinh đến bởi phép báp-tem bằng nước. Trong Tân Ước, phép báp-tem liên hệ đến sự chết chớ không phải sự sinh ra, không thể có loại nước trần gian nào có thể làm thay đổi tình trạng thuộc linh bên trong con người.Gi 3:14-21 nói về sự tin nhận, vì sự cứu rỗi đến bởi đức tin (Eph 2:8,9). Bằng chứng về sự cứu rỗi được bày tỏ qua Đức Thánh Linh ở trong người tin nhận (Ro 8:9). Khi bạn tin nhận Chúa Thánh Linh Ngài sẽ bước vào đời sống bạn (Eph 1:13,14 Cong 10:43-48).
Phép báp-tem bằng nước thể hiện sự vâng phục của chúng ta đối với Đấng Christ, cũng như để làm chứng về Ngài (Mat 28:18-20 Cong 2:41). Tuy nhiên không nên xem đó là điều cần thiết để được cứu rỗi, nếu không, có lẽ chẳng thánh nhân nào trong thời Cựu Ước được cứu rỗi và số phận của tên cướp trên cây thập tự cũng vậy (Lu 23:39-43)! Ở mỗi thời đại, dù chứng cớ về đức tin rất đa dạng, nhưng chỉ có một con đường cứu rỗi: đó là niềm tin nơi lời hứa của Đức Chúa Trời.
Việc sinh con của loài người phải trải qua đau đớn (Gi 16:21), vậy sự sinh ra từ trời cũng vậy. Đấng Christ phải chịu đau đớn trên thập giá để chúng ta có thể trở nên những thành viên trong gia đình của Đức Chúa Trời (Es 53:1). Những tín hữu có lòng sốt sắng đều phải chịu nhọc nhằn trong sự cầu nguyện và làm chứng khi dẫn dắt tội nhân đến với Đấng Christ (ICo 4:15 Ga 4:19). Con cái thừa hưởng bản tính cha mẹ, nên con cái Đức Chúa Trời cũng vậy. Chúng ta là những người “dự phần bản tánh Đức Chúa Trời” (IPhi 1:4).
• Bản tính quyết định sự khao khát.
Đó là lý do Cơ-đốc nhân có sự ham thích những điều thuộc về Đức Chúa Trời (IPhi 2:2-3). Người ấy không muốn nhìn lại những sự ô uê ở thế gian, là những điều từng lôi cuốn mình (IIPhi 2:20-22), nhưng nhờ Lời Đức Chúa Trời để trưởng thành về thuộc linh (He 5:11-14).
Dĩ nhiên, sự sinh ra bao hàm cả sự sống, nên sự sinh thuộc linh từ trời cũng bao hàm sự sống của Đức Chúa Trời. Giăng sử dụng danh từ “sự sống” 36 lần trong Phúc-Âm. Đối lập với sự sống là sự chết, nên người không tin nơi Chúa Giê-xu sẽ không có sự sống của Đức Chúa Trời, không có sự sống đời đời và sung mãn.Bạn không thể tạo ra những Cơ-đốc nhân, nếu bạn không sản sinh những “con trẻ”! Cách duy nhất để bước vào gia đình của Đức Chúa Trời, đó là phải trải qua sự tái sinh (Gi 1:11-13).
Sự sống cũng chứa đựng một tương lai, vì vậy chúng ta được tái sinh để có “sự trông cậy sống” (IPhi 1:3). Một trẻ sơ sinh không bị luật pháp kết tội chi, vì nó không có quá khứ! Khi bạn được tái sinh trong gia đình Đức Chúa Trời, tội lỗi bạn được tha thứ và được quên đi tương lai bạn rạng rỡ với một “sự hy vọng sống”.
Có lẽ trên gương mặt Ni-cô-đem đã lộ vẻ ngạc nhiên lẫn bối rối, vì Chúa phán rằng: “Chớ lấy làm lạ về điều ta đã nói với ngươi: các ngươi phải sinh lại” (IPhi 3:7). Nhưng Ni-cô-đem vốn xuất thân là người Do-thái! Ông thuộc dòng dõi giao ước của Đức Chúa Trời! (Ro 9:4-5). Hẳn là xuất thân của ông đáng hãnh diện hơn người ngoại bang hay người Sa-ma-ri! Hơn thế, đời sống ông rất mẫu mực với tư cách một người Pha-ri-si tin kính! Có lẽ ông nghĩ rằng Chúa Giê-xu muốn nói với người Rô-ma rằng họ phải được tái sinh, chớ không phải dân Do-thái!
• Chúa lại dùng ví dụ kế tiếp: “gió” (Gi 3:8-13).
Có thể một cơn gió ban đêm thổi qua ngay khi Chúa Giê-xu và Ni-cô-đem ngồi trên tầng cao trò chuyện. Từ “gió” theo ngôn ngữ Hê-bơ-rơ và Hy-lạp đều có nghĩa là “Thần Linh”. Một trong những dấu hiệu về Thánh Linh Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh là “gió” hoặc “hơi thở” (Giop 33:4 Gi 20:22 Cong 2:2). Giống như gió, Đức Thánh Linh là vô hình nhưng có quyền năng. Bạn không thể giải thích hay tiên đoán sự chuyển động của gió.
Khi Chúa Giê-xu nói đến dấu hiệu này, lẽ ra Ni-cô-đem phải nhớ đến đoạn Kinh Thánh Exe 37:1-44. Vị tiên tri này thấy một trũng kia đầy những hài cốt, nhưng khi ông nói tiên tri với gió, Thánh Linh Đức Chúa Trời đã khiến những hài cốt ấy sống lại. Chính sự đồng công của Đức Thánh Linh và Lời Đức Chúa Trời, sự sống đã xuất hiện. Dân Y-sơ-ra-ên (trong đó có Ni-cô-đem và các cộng sự của ông) như những kẻ đã chết và vô hy vọng. Dù họ là những người đạo đức và tin kính trong dân sự, họ vẫn cần phải có sự sống của Đức Thánh Linh.
Sự tái sinh từ trời là điều thiết yếu (“các ngươi phải sinh lại”), nhưng cũng là một sự mầu nhiệm. Mỗi người được tái sinh bởi Đức Thánh Linh giống như gió vậy:bạn không thể giải thích rõ ràng hay phán đoán về gió hoặc về con cái Đức Chúa Trời. Đối với vấn đề này, sự sinh của con người vẫn là một sự mầu nhiệm dù chúng ta đều biết về cơ thể con người và sinh lý học. Mỗi sự sống mới đều thú vị và đa dạng.
Ni-cô-đem đến “vào ban đêm” nên ông vẫn ở trong bóng tối tăm. Dù được Chúa giảng giải, ông cũng không hiểu ý nghĩa sự tái sinh. Chúa khẳng định rằng sự hiểu biết về Kinh Thánh Cựu-ước của Ni-cô-đem lẽ ra đã giúp ông nhìn thấy ánh sáng của lẽ thật (Gi 3:10). Ôi “giáo sư của dân Y-sơ-ra-ên” này chỉ biết những sự kiện ghi trong Kinh Thánh, nhưng không hiểu được những lẽ thật!
Ở đây có nan đề gì xuất hiện? Trước hết, các nhà lãnh đạo không tin lời chứng của Chúa Giê-xu (Gi 3:11). Chúng ta sẽ thấy có sự mâu thuẫn về quyền hạn trong những bài học tới. Các nhà lãnh đạo này tuyên bố họ tin Môi-se, nhưng không tin Chúa Giê-xu (Gi 5:37-47). Những người Pha-ri-si chỉ quan tâm đến vinh hiển của loài người hơn vinh hiển Đức Chúa Trời (Gi 12:37-50).
Hình ảnh minh hoạ thứ ba Chúa sử dụng, đó là hình ảnh “Con rắn” bị treo lên nơi đồng vắng (Gi 3:14-18). Câu chuyện trong Dan 21:4-9 hẳn rất quen thuộc với Ni-cô-đem.Câu chuyện nói về tội lỗi, bởi dân Y-sơ-ra-ên đã chống nghịch Đức Chúa Trời nên phải bị đoán phạt. Đức Chúa Trời khiến con rắn lửa đến cắn dân sự, làm nhiều người bị chết.
Đây cũng là câu chuyện về ân điển, vì Môi-se cầu thay cho dân sự và Đức Chúa Trời đã ban một giải pháp. Ngài bảo Môi-se làm một con rắn đồng, treo lên cây sào để mọi người nhìn xem. Người nào bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, sẽ được chữa lành tức thời. Vì vậy, đây cũng là câu chuyện về đức tin, khi dân sự nhìn bằng đức tin, họ sẽ được cứu.
Động từ “treo lên” có ý nghĩa kép bị đóng đinh (Gi 8:28; Gi 12:32-34) và được vinh hiển. Qua Phúc-Âm, Giăng cho thấy sự chết của Chúa Giê-xu trên thập tự giá không phải là nơi kết thúc vinh hiển Ngài, đó chính là cách để Ngài được vinh hiển (Công 2:23-24).
Con rắn bị treo lên cây sào thể nào, Con Đức Chúa Trời cũng sẽ bị treo lên thập tự giá thể ấy. Vì sao? Vì Ngài muốn cứu chúng ta khỏi tội lỗi và sự chết. Ở trại quân Y-sơ-ra-ên, giải pháp về “vấn nạn rắn cắn” không phải bằng hành động giết rắn, uống thuốc, vờ như không có sự hiện diện của rắn, đưa ra luật diệt rắn hay leo lên cây sào. Giải pháp duy nhất chỉ là: nhìn lên con rắn bị treo bằng đức tin!
Cả thế gian đã bị tội lỗi cắn nuốt, “tiền công của tội lỗi là sự chết” (Rô 6:23). Đức Chúa Trời đã sai Con Ngài đến chịu chết không chỉ vì dân Y-sơ-ra-ên, nhưng vì cả thế gian. Một người được sinh từ Đức Chúa Trời ra sao? Người ấy được cứu khỏi sự hư mất đời đời bằng cách nào? Đó là: tin nơi Chúa Giê-xu và nhìn xem Ngài bằng đức tin.
Vào ngày 6 tháng 1 năm 1850, một cơn bão tuyết hầu như đã làm hư hại thành phố Colchester ở England khiến một cậu thiếu niên nọ không thể đến nhà thờ nơi cậu từng thờ phượng. Vì vậy, cậu đành đến một nhà nguyện của Hội Giám lý gần đó. Thay cho vị truyền đạo vắng mặt là một tín hữu không có kinh nghiệm gì về giảng luận.
Đoạn Kinh Thánh người ấy đọc là Es 45:22 “Hỡi các ngươi hết thảy ở các nơi đầu cùng đất, hãy nhìn xem ta và được cứu!” Những ngày tháng qua, dù đã được dạy dỗ trong Hội thánh (cha và ông nội của cậu bé đều là nhà truyền đạo), cậu vẫn cảm thấy khốn khổ và bị cáo trách trong lòng, không biết chắc mình có được cứu rỗi hay không. Người giảng luận trong nhà nguyện vì không có sự chuẩn bị nên anh ta chỉ nói vắn tắt và đơn sơ.
Anh vẫn lặp lại câu Kinh Thánh này và nói lớn: “Người ta không cần phải đến trường để học cách nhìn, vì ai cũng có thể nhìn được, cả đến đứa trẻ cũng nhìn được!” Lúc này, chợt thấy cậu bé ngồi phía dưới, anh ra chỉ vào cậu bé: “Này cậu bé, trông cậu khốn khổ quá, hãy nhìn xem Chúa Giê-xu Christ!” Cậu bé ấy đã “nhìn” bằng đức tin, đó là sự đổi mới của nhà truyền giáo lừng danh Charles Haddon Spurgeon.
Ranh giới giữa sự hư mất và sự sống, giữa sự kết án và sự cứu rỗi, đó là đức tin nơi Chúa Giê-xu. Lẽ ra, Chúa Giê-xu có thể đến thế gian với cương vị Quan Án để đoán phạt mọi tội nhân chống nghịch. Nhưng Ngài đã đến với thế gian này bằng tình yêu để làm Đấng Christ chết thay chúng ta trên thập tự giá! Ngài trở nên “con rắn” bị treo lên nơi đồng vắng. Con rắn thời Môi-se đem đến sự sống thể xác cho những người Do-thái hấp hối, nhưng Chúa Giê-xu Christ ban sự sống đời đời cho bất cứ ai tin nhận Ngài. Ngài dành sự cứu rỗi cho cả một thế giới!
-Hình ảnh thứ 4 Chúa sử dụng, đó là: sự sáng và sự tối tăm (Gi 3:19-21). Đây là một trong những hình ảnh được nhắc đến nhiều nhất trong Phúc-âm Giăng (Gi 1:4-13). Vì sao tội nhân không muốn bước vào “sự sáng” của sự sống? Vì họ ưa thích sự tối tăm hơn. Họ muốn chìu theo những điều tội lỗi, nó khiến họ xa cách với sự sáng. Tội nhân càng đến gần sự sáng, tội lỗi họ càng bị phơi bày. Đây không phải là “vấn đề về tri thức” khiến người ta không tin nhận Chúa, chính sự mù loà về đạo đức và thuộc linh đã khiến con người ưa thích sự tối tăm và ghét sự sáng.
Bạn để ý xem, cuối cùng Ni-cô-đem mới thật sự “đến cùng sự sáng”. Từ nơi bóng đêm của sự bối rối (Gi 3:1-21), ông đã bước ra ánh sáng của sự xưng nhận khi đồng cảm với Chúa Giê-xu nơi đồi Gô-gô-tha (Gi 19:38-42). Ni-cô-đem nhận biết rằng Đấng Christ bị treo lên thật sự là Con Đức Chúa Trời.
2. Chúa Giê-Xu: Chàng rể (Gi 3:22-30)
Cho đến lúc Giăng Báp-tít bị vua Hê-rốt bắt giữ và giam vào ngục, chức vụ của ông có phần nào chồng chéo với chức vụ của Chúa Giê-xu. Giăng không muốn ai đi theo ông, vì công tác của ông nhằm cho mọi người biết Chiên Con của Đức Chúa Trời và kêu gọi họ tin nhận Ngài. Nhưng khi hai nhà truyền đạo nổi tiếng cùng tham gia vào một việc giống nhau thì thật dễ cho cả bạn bè lẫn kẻ thù bị cuốn hút vào việc cạnh tranh hay so sánh.
Dường như có một vài môn đệ của Giăng bắt đầu tranh cãi. Vấn đề khởi đầu từ những giáo lý, về sự tinh sạch, nhưng sau đó chuyển sang những quan điểm riêng. Ở Gi 3:25 một vài cổ bản ghi là “một người Do-thái” thay vì “những người Do-thái”. Có thể người Do-thái không được nêu danh tánh này là Ni-cô-đem chăng? Chúng ta không thể xác định chắc chắn, nhưng có thể vậy.
Vấn đề về sự tinh sạch rất quan trọng đối với dân Do-thái (Mac 7:1-23). Dưới luật pháp Cựu-ước, họ phải giữ cho tinh sạch về hình thức nếu muốn hầu việc Đức Chúa Trời và làm đẹp lòng Ngài. Tiếc thay, người Pha-ri-si đã áp đặt thêm nhiều hình thức đến nỗi trở thành một ách nặng nề cho dân sự.
Vô tình các môn-đệ Giăng đẩy ông vào tình thế tranh cạnh với Chúa Giê-xu! “Ai nấy đều đến cùng người!” (Mac 3:26) nghe như lời than vãn đầy chán nản. Thật nực cười khi thấy rằng có 4 nhân vật nổi tiếng trong Kinh Thánh phải đối diện với sự so sánh tranh cạnh này, đó là: Môi-se (Dan 11:26-30) Giăng Báp-tít (Gi 3:26-30), Chúa Giê-xu (Lu 9:46-50) và Phao-lô (Phi 1:15-18). Người lãnh đạo thường chịu phiền toái do những đồ đệ cực đoan của mình hơn những kẻ chỉ trích.
Giăng dàn xếp cuộc tranh cãi gay gắt này ra sao? Trước hết Giăng quả quyết rằng: mọi chức vụ và ơn phước đều từ Đức Chúa Trời đến, nên không ai có thể tranh cạnh được (Gi 3:27). Phao-lô cũng đồng một tư tưởng như vậy (ICôr 3:1-9; ICôr 4:1-7). Những sự ban cho và mọi cơ hội đều đến từ Đức Chúa Trời, nên chỉ có Ngài đáng được quy vinh hiển.
Giăng dùng một hình ảnh thật tuyệt vời khi so sánh Chúa Giê-xu như chàng rể, và bản thân ông như “bạn chàng rể” (Gi 3:29). Khi chàng rể gặp cô dâu, công việc của người bạn xem như đã hoàn tất. Nếu bạn chàng rể lấn át vị trí của chàng rể, đó là điều thiếu khôn ngoan. Niềm vui của Giăng là được nghe Chàng rể để biết rằng Chàng rể đã gặp được “vợ mới”.
Thậm chí, trước khi ra đời, Giăng đã vui mừng trong Chúa (Lu 1:44). Giăng thỏa lòng được làm “tiếng kêu” rao truyền cho mọi người biết Chúa Giê-xu là Ngôi Lời trở nên xác thịt (Gi 1:23). Ngài là Sự sáng, còn Giăng Báp-tít là người làm chứng về Sự Sáng ấy (Gi 1:6-8).
Những thông cáo báo chí và tài liệu tham khảo được gởi đến trên bàn làm việc của tôi, với những bìa đựng tài liệu. hội nghị đôi lúc tôi bị xao xuyến bởi những gì mình đọc. Đa số họ là những người đi khắp thế giới hoặc là những diễn giả nổi tiếng, đã nói chuyện trước nhiều khán thính giả. Họ luôn được người ta ái mộ, nên công việc của họ được mô tả ở những mức độ mà nếu đem so sánh, ta sẽ thấy Phao-lô vẫn còn rất “bé nhỏ”.
Có một vị mục sư hội trưởng lão ở Melbourne – Australia giới thiệu J. Hudson Taylor với những lời ca ngợi tận mây xanh, đặc biệt là từ vĩ đại. Taylor bước lên bục và nhỏ nhẹ nói: “Thưa các bạn, tôi là đầy tớ hèn mọn của một Vị Chủ tiếng tăm lừng lẫy”. Nếu Giăng Báp-tít nơi thiên đàng nghe lời nói ấy, hẳn ông sẽ cất tiếng “Ha-lê-lu-gia”.
Hình ảnh Chàng rể có lẽ rất ý nghĩa đối với dân Do-thái, vì Đức Chúa Trời đã “một giao-ước hôn nhân” cùng dân tộc này (Es 54:5; Es 62:4; Gie 2:2; Gie 3:20; Exe 16:8; Os 2:19). Dân Do-thái đã bội nghịch lời giao ước, nên Đức Chúa Trời tạm thời lìa bỏ họ. Ngày nay, Đức Chúa Trời đang mời gọi một tập thể người cho danh Ngài, đó là Hội Thánh, vợ hứa của Đấng Christ (IICôr 11:1-3; Eph 5:22-33). Ngày nào đó, Chàng rể sẽ đến rước “vợ hứa” Ngài về nhà trên trời (Kh 19:6-9; Kh 21:9).
Từ “phải” được sử dụng ở ba phương diện có ý nghĩa trong đoạn này. Có một từ “phải” dành cho tội nhân (Gi 3:7), một từ “phải” dành cho Đấng Christ (Gi 3:14) và một từ “phải” dành cho tôi tớ (Gi 3:30).
3. Chúa Giê-Xu - Đấng Làm Chứng về Đức Chúa Trời (Gi 3:31-36)
Các học giả Kinh Thánh có sự bất đồng về việc ai là người nói những lời từ Gi 3:31-36 có thể Giăng Báp-tít hoặc sứ đồ Giăng. Vì lẽ đó một số học viên Kinh Thánh cho rằng Gi 3:16-21 là lời của sứ-đồ Giăng chớ không phải của Chúa Giê-xu. Ở những bản dịch Kinh Thánh xưa, không có dấu ngoặc kép, nhưng vì cả Kinh Thánh đều được Đức Chúa Trời hà hơi, nên vấn đề ai nói những lời ấy là điều không quan trọng.
Trọng tâm của phân đoạn này là “Lời chứng”, một trong những chủ đề chính trong Phúc-âm Giăng. Động từ “làm chứng” được sử dụng nhiều lần trong Kinh Thánh. Giăng làm chứng về Chúa Giê-xu (Gi 1:7 Gi 5:33), nhưng Chúa cũng làm chứng về chân lý. Vì sao chúng ta cần chú ý lời chứng của Ngài? Vì nhiều lý do.
-Lý do trước hết, Ngài là “Đấng từ trên cao” (Gi 3:31). Không phải Ngài đơn giản chỉ là người được sự kêu gọi từ trời, hay được ban quyền phép từ trời, nhưng Ngài chính là Đấng từ trời xuống. Lời tuyên bố này đã khiến dân Do-thái tranh cãi gay gắt, vì họ biết rằng Chúa xưng Ngài là Con Đức Chúa Trời (Gi 6:38-42). Giăng Báp-tít dĩ nhiên không phải là người từ trời nên không tuyên bố như Chúa Giê-xu. Không sứ giả nào của Đức Chúa Trời sống trên đất là người “từ trời”. Chỉ có Chúa Giê-xu là Đấng duy nhất có thể tuyên bố về Ngài và minh chứng được lẽ thật ấy.
Là Đấng từ trời đến, nên Chúa Giê-xu hiện thân của Đức Chúa Cha. Vì vậy, chối bỏ lời chứng Ngài cũng đồng nghĩa với chối bỏ Đức Chúa Trời (Gi 5:23). Chúng ta đều biết lời chứng Ngài là thật, vì Ngài là Đức Chúa Trời chân thật. Chúng ta có thể tin lời ấy và đứng vững trên Lời ấy.
-Lý do thứ hai: chúng ta phải nhận lời chứng của Ngài, bởi đó là lời chứng trực tiếp (“đã thấy và nghe” Gi 3:32-33). Ngài chia sẻ mọi điều đã thấy và nghe từ nơi Cha trên trời (Gi 8:38). Những ai nhận lời chứng của Ngài và làm theo, đều kinh nghiệm lẽ thật từ Ngài (Gi 7:17). Đừng chỉ học lời Ngài bằng lý trí mà không áp dụng vào nếp sống thường nhật. Chỉ khi nào chúng ta vâng theo lời Ngài và áp dụng vào thực tiễn, chúng ta sẽ hiểu rõ lẽ thật và kinh nghiệm quyền năng của lẽ thật ấy.
-Lý do thứ ba: Đức Chúa Cha đã ban mọi quyền phép cho Con Ngài (Gi 3:34-35). Ngài sai Con đến, ban cho Con Ngôi Lời, Thánh Linh và mọi sự (Gi 13:3). Quả là sứ mạng đặc biệt! Chối bỏ lời chứng của Con nghĩa là chống nghịch Đấng có quyền tối thượng trong vũ trụ!
Chúng ta thường nghĩ đến tình yêu Đức Chúa Trời dành cho thế giới hư mất (Gi 3:16), nhưng Giăng cũng nhắc ta nhớ đến tình yêu Đức Chúa Trời dành cho Con Ngài. Chúa Giê-xu là “Con yêu dấu” của Cha trên trời (Mat 3:17; Mac 1:11; Lu 3:22). Vì yêu Con, Cha đã ban cho Con mọi sự, cũng như bày tỏ mọi sự cho Con (Gi 5:20). Tình yêu là sự ban cho tất cả mọi điều!
Vì vậy, khi nhận lời chứng của Chúa Giê-xu, chúng ta được hưởng tình yêu và mọi sự thuộc về Ngài. Chối bỏ lời chứng của Đấng Christ là phạm tội nghịch cùng tình yêu và sự sáng. Không lấy gì làm lạ khi Chúa đã khóc về thành Giê-ru-sa-lem (Mat 23:37-39). Không chỉ chối bỏ lời chứng Ngài, dân sự còn chối bỏ thông điệp và những phép lạ Ngài thực hiện. Họ phải bị đoán phạt vì sự chối bỏ của mình.
-Lý do sau cùng: nếu nhận lời chứng của Ngài, chúng ta sẽ thoát khỏi cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời (Gi 3:36). Đây là chỗ duy nhất trong Phúc-Âm hay các thư tín được Giăng sử dụng từ “cơn thạnh nộ” (Giăng sử dụng từ này 6 lần trong sách Khải-thị). Câu Kinh Thánh trên có ý nghĩa tương đương với câu Gi 3:18, cho thấy không thể có tình trạng “trung lập” về lời chứng của Chúa Giê-xu: hoặc tin Ngài, hoặc chối bỏ Ngài. Chúng ta chỉ có một sự lựa chọn!
“Sự sống đời đời” không chỉ đơn giản có nghĩa là sự vĩnh cửu nơi thiên đàng. Người tin nhận Chúa ngay bây giờ có thể nhận sự sống ấy! Đó là sự sống của Đức Chúa Trời trong lòng người tin nhận. Đối lập với sự sống đời đời là sự chết đời đời, là cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời. Không phải đến khi chết, con người mới vào địa ngục và chịu sự thạnh nộ của Đức Chúa Trời nơi hoả ngục. “Ai không tin đã bị đoán xét rồi” (Gi 3:8). Án lịnh đã được công bố, nhưng bản án chưa được thi hành.Vì sao? Vì Đức Chúa Trời là Đấng đầy lòng nhẫn nhục, Ngài vẫn đang kêu gọi tội nhân ăn năn (IIPhi 3:9).
Khi xem lại đoạn 3, bạn sẽ thấy sứ-đồ Giăng muốn nhấn mạnh về mối tương giao riêng tư với Chúa Giê-xu: Đó là mối tương giao sống khởi đầu bằng sự tái sinh, là sự sinh từ trời. Khi tiếp nhận Chúa Giê-xu Christ vào đời sống mình, bạn sẽ sống bằng sự sống của Ngài và trở nên con cái trong gia đình Đức Chúa Trời. Đó cũng là mối tương giao ngọt ngào, vì Ngài là Chàng rể và chúng ta như “vợ mới”.
Giống như Giăng Báp-tít, chúng ta ao ước Chúa Giê-xu phải dấy lên, chúng ta phải hạ xuống. Ngài đáng nhận mọi vinh hiển và sự ngợi khen! Đây cũng là mối tương giao sâu sắc, vì Ngài là Đấng làm chứng chân thật về chân lý của Đức Chúa Trời cho chúng ta. Vui mừng thay khi tiếp nhận Lời Ngài, suy ngẫm và ứng dụng vào đời sống mình!
Bạn đừng quên cái giá của những hạnh phước này. Để chúng ta được sinh trong gia đình Đức Chúa Trời, Chúa Giê-xu phải chịu chết. Để chúng ta được sinh trong gia đình Đức Chúa Trời, Chúa Giê-xu phải chịu chết. Để chúng ta được bước vào mối tương giao ngọt ngào của sự cứu rỗi, Ngài phải chịu sự khinh ghét và kết án của loài người. Ngài phải bị treo lên cây thập tự để chúng ta có thể kinh nghiệm sự tha thứ và sự sống đời đời.
Mong rằng chúng ta không bao giờ xem thường “Ngài phải dấy lên, ta phải hạ xuống” (Gi 3:30).
4. NGƯỜI SA-MA-RI (Gi 4:1-54)
Ở đoạn 4 này, Chúa Giê-xu đến với những hạng người khác nhau: người đàn bà Sa-ma-ri tội lỗi, các môn đệ, nhiều người Sa-ma-ri tin nhận Chúa, quan thị vệ và cả gia đình ông. Những người này có một điểm chung nào? Đó là: đức tin của họ nơi Chúa Giê-xu Christ. Mục đích của Giăng khi viết Phúc-Âm nhằm cho người đọc hiểu rằng những con người có bản chất và giai cấp khác nhau đã đến với Chúa Giê-xu và tin nhận Ngài là Con Đức Chúa Trời.
Chúng ta hãy cùng gặp những con người này để khám phá đức tin họ khởi đầu và phát triển ra sao, giúp ích bản thân họ và những người khác như thế nào.
1. Người đàn bà Sa-ma-ri (Gi 4:1-30)
Vì cớ những người Pha-ri-si xui kẻ khác có sự so sánh giữa Chúa Giê-xu và Giăng Báp-tít (Gi 3:25-30) nên Chúa Giê-xu phải rời xứ Giu-đê để đến Ga-li-lê. Ngài có thể đi 1 trong 3 con đường: dọc theo mé biển, qua sông Giô-đanh và lên xứ Bê-ri-a (Perea) hoặc đi thẳng đến xứ Sa-ma-ri. Dân Do-thái chính thống luôn tránh mặt dân Sa-ma-ri, vì giữa 2 dân này có sự thù ghét nhau từ lâu.
Dân Sa-ma-ri là dân lai tạp, nửa dòng máu Do-thái và nửa dòng máu dân ngoại. Dân này phát triển ra kể từ khi 10 chi phái ở phía Bắc bị dân A-si-ri lưu đày năm 727 TC. Bị dân Do-thái không nhìn nhận vì gia phả không rõ ràng, dân Sa-ma-ri đành phải lập đền thờ và nghi lễ thờ phượng riêng của họ tại núi Ghê-ri-xin.
Điều này càng khơi thêm ngọn lửa thành kiến. Một số người Pha-ri-si quá thù hận dân Sa-ma-ri đến nỗi đã cầu nguyện rằng: sẽ không có một người Sa-ma-ri nào sống lại vào thời kỳ sống lại! Khi kẻ thù muốn sỉ nhục Chúa Giê-xu, chúng ta đã gọi Ngài là “người Sa-ma-ri” (Gi 8:48).
Vốn luôn sống theo giờ giấc đã được Đức Chúa Trời định sẵn, Chúa Giê-xu phải đến sứ Sa-ma-ri. Vì sao? Vì nơi ấy Ngài sẽ gặp một người đàn bà, đưa bà đến với đức tin sống, một đức tin thật có thể ảnh hưởng cho cả làng. Chúa chúng ta là Đấng đối xử công bình với mọi người. Trước đây, Ngài đã giải đáp thắc mắc cho một người Do-thái mẫu mực (Gi 3:1-21), và giờ đây Ngài làm chứng cho một người đàn bà Sa-ma-ri tội lỗi! Ngài đến giếng Gia-cốp lúc 12 giờ trưa, thường là giờ phụ nữ đi lấy nước. Khi các môn-đệ đi mua thức ăn, Chúa có ý chờ đợi tại giếng nước này. Ngài ở trong tình trạng mệt mỏi và đói khát. Giăng không chỉ bày tỏ Chúa là Con Đức Chúa Trời, Ngài còn là Con Người giản dị. Ngài từng trải mọi hoàn cảnh của cuộc sống chúng ta nên Ngài luôn thông cảm với chúng ta.
Khi đọc cuộc đối thoại giữa Chúa và người đàn bà này, bạn hãy chú ý xem sự hiểu biết của bà về Chúa Giê-xu phát triển ra sao cho đến khi biết rằng Ngài là Đấng Christ. Bà đã trải qua 4 bước kinh nghiệm.
Ngài là “người Do-thái” (Gi 4:7-10). Thời đó, người đàn ông đặc biệt là thầy dạy luật không được phép nói chuyện với một người đàn bà xa lạ (Gi 4:27). Nhưng Chúa Giê-xu không để tâm đến tập quán xã hội, vì sự cứu rỗi đời đời dành cho một linh hồn đang bị đe doạ. Hẳn người đàn bà rất ngạc hiên khi Chúa xin nước. Bà đoán bà cố tìm ra một ý nghĩa khác. Ngài thật sự muốn tìm kiếm điều gì?
Chi tiết được Giăng đóng ngoặc ở cuối Gi 4:9 cốt dành cho độc giả người ngoại. Việc các môn đệ “ra phố mua đồ ăn” (Gi 4:8) chứng tỏ người Do-thái có cách đối xử hơi khác lạ đối với dân Sa-ma-ri. Không phải Giăng cố ý cường điệu. Câu Gi 4:8 có thể hiểu rằng: “đừng cầu xin điều gì nơi dân Sa-ma-ri”, hoặc “đừng dùng chung vật dụng với dân Sa-ma-ri”. Tại sao Chúa Giê-xu là người Giu-đa lại muốn dùng cái gàu ô uế của người đàn bà này để kiếm một ngụm nước?
Dĩ nhiên lời yêu cầu của Chúa chỉ là cách để mở đầu cuộc trò chuyện và chia sẻ cho người đàn bà này chân lý về “nguồn nước sống”. Khi làm chứng cho ai, Chúa không mở đầu như “lời chào hàng”, nhưng Ngài ứng biến theo từng hoàn cảnh. Với Ni-cô-đem, Ngài nói về sự tái sinh, nhưng với người đàn bà này, Ngài nói về nguồn nước sống.
Chúa bày tỏ cho bà thấy rằng bà không có sự hiểu biết về 3 vấn đề quan trọng: Ngài là ai? Ngài sẽ ban điều gì? Và bà có thể nhận điều đó bằng cách nào? Trước mặt bà là sự hiện diện của một Đức Chúa Trời hằng sống, muốn ban sự sống đời đời cho bà! Người Sa-ma-ri cũng ở trong sự tối tăm như người Do-thái vậy (Gi 1:26). Tuy nhiên, Lời Chúa gây sự quan tâm cho bà, khiến bà bị lôi cuốn vào cuộc nói chuyện.
• “Chúa há lớn hơn Gia-cốp sao?” (Gi 4:11-15).
Chúa muốn nói về nguồn nước tâm linh, nhưng người đàn bà này hiểu lời Ngài theo nghĩa “đen”. Một lần nữa, chúng ta thấy con người cứ luôn lẫn lộn giữa vấn đề thuộc thể và thuộc linh! Hơn thế nữa bà này quan tâm đến việc làm cách nào Chúa có được nước này thay vì chỉ đơn giản xin Ngài cho uống nước ấy.
-Chúa Giê-xu lớn hơn Gia-cốp. Đó là điều dĩ nhiên! Ngài còn “lớn hơn” cả cái giếng này nữa! Lời đáp của Ngài có thể được hiểu rằng: “Ai uống nước này vẫn còn khát mãi (mọi điều thế gian ban cho vẫn không đủ) nhưng uống nước ta sẽ cho, thì chẳng hề khát nữa!” (Gi 4:13-14). Thật vậy, mọi sự ở thế gian không bao giờ làm con người thoả mãn hoàn toàn. Ngày nay nơi âm phủ, con người cũng đang kêu la: “tôi khát”
Chúng ta biết rằng sự sống là một trong những ý niệm chính của Phúc-âm Giăng. Ông sử dụng từ này ít nhất 36 lần. Campbell Morgan nói rằng: để duy trì sự sống, con người cần không khí, nước và thực phẩm (chúng ta có thể thêm vào ‘ánh sáng’). Những điều này cũng được ban cho trong Chúa Giê-xu. Ngài cung cấp cho chúng ta “hơi thở (Thánh Linh) của Đức Chúa Trời (Gi 3:8; Gi 20:22). Ngài là Bánh của sự sống (Gi 6:48). Sự sáng của sự sống (Gi 1:4,5). Ngài cũng ban cho ta nước của sự sống nữa.
Phản ứng nhất thời của người đàn bà thể hiện qua việc xin Chúa nước sống. Thật ra, bà không hiểu mình muốn nói gì. Hạt giống của Đạo đã rơi vào đất đá sỏi, chồi non lú lên nhưng chưa bám rễ (Mat 13:20-21). Tình trạng của bà có tiến triển, nhưng vẫn phải trải qua thời gian dài mới có sự thông hiểu. Vì vậy Chúa Giê-xu rất kiên nhẫn đối với bà.
• “Một Đấng tiên tri” (Gi 4:16-24).
Cách duy nhất để chuẩn bị cho “vùng đất” của lòng người dễ dàng tiếp nhận hạt giống Đạo, đó là phải cày “đất” lên bằng “sự kết tội”. Đó là lý do Chúa Giê-xu bảo người đàn bà đi gọi chồng đến: Ngài muốn bà phải thừa nhận tội lỗi mình. Trước hết phải có sự kết tội, sự ăn năn và rồi sẽ dẫn đến một đức tin được cứu rỗi. Chúa Giê-xu thức tỉnh bà, khơi dậy những cảm xúc trong bà, nhưng Ngài cũng đụng đến lương tâm bà, điều đó có nghĩa là Ngài giải quyết vấn đề tội lỗi bà.
“Tôi không có chồng” là câu nói ngắn nhất của bà suốt cuộc nói chuyện! Vì sao? Bởi giờ đây bà bị kết tội nên miệng “phải ngậm lại” (Rô 3:19). Tuy vậy, điều này xảy đến cho bà là điều tốt nhất!
Thay vì lắng nghe lời Chúa, bà cố đưa Ngài đi “đường vòng” khi bàn luận về hình thức lễ nghi của người Do-thái và người Sa-ma-ri. Bàn luận về lễ nghi tôn giáo có lẽ thuận tiện hơn đối diện với tội lỗi! Tuy vậy, một lần nữa Chúa cho bà thấy sự tối tăm về thuộc linh của bà: không biết thờ phượng ai, thờ phượng ở đâu và thờ phượng bằng cách nào! Ngài tuyên bố rằng mọi hình thức tôn giáo đều không làm Đức Chúa Trời đẹp lòng, như một số tín đồ vẫn hành động theo cách thiếu hiểu biết và vô tín.
Niềm tin duy nhất được Đức Chúa Trời chấp nhận là niềm tin đến từ dân Do-thái. Kinh Thánh xuất phát từ Do-thái và Đấng Christ cũng là người Do-thái. Những Cơ-đốc nhân đầu tiên là người Do-thái. Một nhân viên mộ đạo làm việc trong một phi trường nói rằng Đấng cứu rỗi thế gian từ Hàn quốc đến, nhưng Chúa Giê-xu phán: “Sự cứu rỗi bởi người Do-thái mà đến” Gi 4:22). Những ai có Đức Thánh Linh ngự vào và sống theo chân lý là những người thờ phượng đẹp lòng Đức Chúa Trời.
Thật là câu nói gây ấn tượng khi cho rằng sự thờ phượng sẽ không còn giới hạn trong đền thờ dân Do-thái. Câu nói của Chúa là hợp với Gi 2:19-21 và cũng là lời của Ê-tiên trong Công 7:1-18-50. Rõ ràng, Phúc-Âm Giăng bày tỏ rằng có một của lễ mới (Gi 1:29), một đền thờ mới (Gi 4:11). Dân Do-thái khi đọc Phúc-Âm này phải hiểu rằng qua Chúa Giê-xu, Đức Chúa Trời đã lập một kế hoạch mới. Luật pháp của giao-ước cũ đã được làm trọn và bước sang trang mới.
• Đấng Christ (Gi 4:25-30).
Dù thiếu hiểu biết, người đàn bà vẫn tin một chân lý: Đấng Mê-si-a sẽ đến bày tỏ mọi điều trong lòng người. Chúng ta biết bà học lẽ thật này từ đâu, nhưng hạt giống cho đến giờ này đã được gieo vào lòng bà và kết quả. Chúa phán với bà: “Ta, người đang nói với ngươi đây chính là Đấng đó” (c.26) Ngài đã công khai tuyên bố danh Thánh của Đức Chúa Trời!
Lúc này người đàn bà tin nhận Chúa Giê-xu và được đổi mới. Bà nôn nóng muốn chia sẻ niềm tin mình với người khác nên chạy vào làng cho mọi người biết rằng bà đã gặp Đấng Christ. Khi suy ngẫm về điều này, chúng ta thấy sự hiểu biết chân lý thuộc linh đơn sơ và sự sốt sắng làm chứng của người đàn bà đã khiến chúng ta phải xấu hổ. Đức Chúa Trời đã sử dụng lời chứng đơn sơ của bà khiến nhiều người chạy đến giếng nước mong gặp Chúa Giê-xu. Các Ra-bi Do-thái cho rằng thà những lời luật pháp bị thiêu cháy hơn là phân phát nó cho người đàn bà! Nhưng Chúa Giê-xu không đồng tình với thành kiến hẹp hòi ấy.
Vì sao người đàn bà để lại cái vò nước khi vội vã vào thành. Bà có “mạch nước sống” trong lòng nên rất thoả mãn. Bà cũng có ý sẽ trở lại, và trong thời gian này Chúa cùng các môn đệ có thể uống nước tại giếng. Những rào chắn “kỳ thị” và những mâu thuẫn trước đây giờ đã bị phá vỡ! Tất cả đều hiệp một trong đức tin và tình yêu thương.
Người đàn bà không đặt niềm tin nơi Chúa ngay lúc đầu. Chúa vẫn kiên nhẫn với bà. Qua đó Ngài đã làm một tấm gương cho chúng ta noi theo trong công việc thường nhật của mình. Hẳn bà là người có hy vọng được cứu rất mong manh, vậy mà Đức Chúa Trời đã dùng bà để cứu cả làng!
2. Các môn-đệ (Gi 4:31-38)
Khi các môn đệ đem thức ăn trở về, họ ngạc nhiên khi thấy Ngài nói chuyện với một người đàn bà, đặc biệt là người Sa-ma-ri! Nhưng họ không dám cắt ngang cuộc nói chuyện, vì biết Ngài hành động theo ý đã định, không cần sự can thiệp nào của họ. Sau khi người đàn bà đi khỏi, họ nài nỉ Ngài ăn với họ vì biết Ngài đã đói.
Lời đáp của Ngài “Ta có một lương thực để nuôi mình mà các ngươi không biết” Gi 4:32) hẳn làm các môn-đệ khó hiểu. Ngài giải thích rằng lương thực của Ngài là làm theo ý muốn Cha trên trời. Trong trường hợp này việc dẫn người đàn bà đến sự cứu rỗi là “chất bổ dưỡng” thật cho linh hồn Ngài. Các môn-đệ chỉ thỏa mãn với bánh thuộc thể, nhưng Chúa Giê-xu thỏa lòng với sự làm trọn công việc của Cha Ngài.
Philip Brooks nói rằng: “Hãy tìm kiếm chất bổ dưỡng cho sự sống của bạn qua công việc của sự sống”. Ý muốn Đức Chúa Trời phải là nguồn năng lực và thỏa lòng cho con cái Ngài, giống như đang dự một buổi tiệc linh đình vậy. Nếu điều gì chúng ta làm khiến chúng ta mệt mỏi hơn là được gây dựng, vậy ta nên tự hỏi liệu đó có phải là ý muốn Đức Chúa Trời dành cho chúng ta hay không.
Chúa chúng ta không xem ý muốn Đức Chúa Trời như một gánh nặng hay một công tác nhàm chán. Ngài xem công việc ấy như chính thực phẩm của linh hồn mình. Làm theo ý muốn Đức Chúa Trời đã gây dựng và làm Ngài thoả lòng. “Hỡi Đức Chúa Trời tôi, tôi lấy làm vui mừng làm theo ý muốn Chúa” (Thi 40:8). Người đàn bà Sa-ma-ri giờ đây cũng đang làm theo ý muốn Đức Chúa Trời và tìm thấy sự vui mừng càng thỏa lòng trong tâm linh.
Chúa Giê-xu chuyển hình ảnh về thức ăn sang hình ảnh của đồng ruộng trong mùa gặt là nguồn “lương thực”. Ngài lặp lại các châm ngôn quen thuộc của dân Do-thái nói về sự chờ đợi mùa gặt. Ngài muốn nói đến những người trong làng, họ đã đến với Ngài nhờ lời chứng của người đàn bà Sa-ma-ri. Các môn đệ đi vào thành chỉ để mua thức ăn cho mình chớ không hề rao giảng Phúc-Âm. Chính người đàn bà Sa-ma-ri đã thay thế họ!
“Mùa gặt” là hình ảnh quen thuộc trong Kinh Thánh, thường được dùng để nói về công tác thu phục linh hồn tội nhân. Ví dụ về người gieo giống (Mat 13:1-30) có liên quan đến chủ đề trên, cũng được Phao-lô nói đến trong các thư tín (Rô 1:13; ICôr 3:6-9; Ga 6:9). Chúng ta phải gieo hạt giống của Đạo Đức Chúa Trời vào lòng kẻ nghe và cố gắng chăm sóc hạt giống ấy bằng tình yêu thương và sự cầu nguyện.
Đến kỳ, hạt giống ấy có thể kết quả cho sự vinh hiển của Đức Chúa Trời.
Khi các môn-đệ đến thành Si-kha xứ Sa-ma-ri, có lẽ họ cho rằng không thể có mùa gặt ở đây! Dân này rất ghét người Do-thái của chúng ta, vậy sẽ chẳng ích lợi gì khi rao giảng cho họ! Thế nhưng kết quả ngược với suy nghĩ họ, “mùa gặt” đã sẵn sàng, chỉ chờ con gặt trung tín đến “thu hoạch” mà thôi!
Khi làm chứng cho Chúa Giê-xu, chúng ta thường cảm thấy “chưa phải lúc” hay “chưa đúng chỗ”. Cần có đức tin để gieo hạt giống này, nên chúng ta phải làm chứng về Chúa dù ở trong những hoàn cảnh dường như bất lợi. Bạn hãy đọc và suy ngẫm Tr 11:4. Không hề có sự cạnh tranh trong mùa gặt của Chúa, mỗi chúng ta đều được giao một nhiệm vụ và tất cả đều cộng tác với nhau (ICôr 3:6-9). Người trồng, kẻ tưới, nhưng mỗi người đều sẽ lãnh phần thưởng tuỳ công việc mình làm.
Gi 4:38 cho thấy đã có những người đến giảng đạo trước tại Sa-ma-ri và dọn đường sẵn cho “mùa gặt này”. Chúng ta không biết họ là ai và cũng không cần phải biết, vì Đức Chúa Trời hẳn sẽ thưởng công xứng đáng cho họ. Có lẽ trong số những người trung tín này, một số là môn-đệ Giăng số khác đã nghe bài giảng của Giăng Báp-tít. Họ đã đến với vùng đất khô cằn này.
Một số nhà khảo cổ học xác định vị trí của “Ê-nôn gần Sa-lim” nơi Giăng Báp-tít làm phép báp-têm (Gi 3:23), là nơi gần thành Si-kha và giếng Gia-cốp. Như vậy, Giăng Báp-tít đã “khai hoang” vùng đất này để gieo “giống”, còn Chúa Giê-xu và các môn đệ là người “thu hoạch”. Đương nhiên, người đàn bà này cũng góp phần gieo giống qua hành động làm chứng cho nhiều người khác.
Các môn-đệ đã học một bài học quý giá, khích lệ họ rất nhiều vào những năm sau đó. Họ không đơn độc khi hầu việc Chúa, vì vậy không bao giờ xem bất cứ cơ hội làm chứng nào là vô ích và mất thời gian cả. Cần phải có đức tin để khai khẩn đất và gieo giống, nhưng Đức Chúa Trời cũng hứa ban một mùa gặt cho chúng ta (Thi 126:5,6; Ga 6:4). Trong những năm sau, Phi-e-rơ và Giăng đã bước vào một mùa gặt khác giữa xứ Sa-ma-ri (Công 8:5-25). Những người gieo giống có thể không nhìn thấy mùa gặt, nhưng những kẻ thâu hoạch sẽ dâng lời cảm tạ Đức Chúa Trời về những kẻ gieo giống trung tín.
Từ “công lao” ở Gi 4:38, theo tiếng Hy-lạp có nghĩa như “mệt mỏi” ở Gi 4:6. Gieo giống, chăm sóc và thu hoạch là những công việc khó nhọc, không chỉ ở lãnh vực tự nhiên mà còn ở lãnh vực thuộc linh nữa. Không có chỗ cho kẻ lười biếng trong mùa gặt! Công việc thật khó nhọc, vậy mà con gặt quá ít!
3. Người Sa-ma-ri (Gi 4:39-42)
Nhiều người Sa-ma-ri tin nhận vì lời chứng của người đàn bà. Sau đó có thêm nhiều người tin theo khi họ nghe Lời Chúa. Họ vui mừng đến nỗi nài xin Ngài ở lại với họ. Ngài ở cùng họ trong 2 ngày. Trong thời gian ngắn ngủi ấy. Lời Ngài đã khiến đời sống họ kết quả.
Thật ý nghĩa khi những con người đổi mới này được gây dựng bởi Lời Chúa. Những người Sa-ma-ri này bắt đầu những bước đi thuộc linh khi tin nơi lời chứng của người đàn bà. Nhưng sau đó họ tin Đạo qua sự dạy dỗ của chính Đấng Christ. Không có sự cứu rỗi do người khác kể lại, nhưng họ biết mình được cứu do tin nơi Lời Ngài. “Vì chính chúng ta đã nghe Ngài” (Gi 4:42) – đó là lời chứng đầy vui mừng của họ.
Có lẽ bạn tưởng những người Sa-ma-ri này có đức tin rất hạn hẹp, chỉ xem Chúa Gê-xu là Đấng Christ của dân Do-thái và Sa-ma-ri. Nhưng họ xưng nhận Ngài là “Cứu Chúa của thế gian” (Gi 4:42). Trong vài ngày, họ không chỉ đổi mới mà còn có tầm nhìn về công tác truyền giảng! Thật vậy, tầm nhìn của họ còn rộng hơn sự hiểu biết của các sứ-đồ!
Bạn sẽ thấy thú vị nếu dõi theo chuyến đi của Chúa Giê-xu đưa Ngài đến xứ Sa-ma-ri. Ngài từ Giê-ru-sa-lem (Gi 2:23) đến xứ Giu-đê (Gi 3:22), từ đó Ngài đến xứ Sa-ma-ri (Gi 4:4) và được dân này gọi Ngài là “Cứu Chúa của thế gian”.
Chuyến hành trình này hoàn toàn giống với Công 1:8 “Các ngươi sẽ nhận lấy quyền phép, và làm chứng về ta tại thành Giê-ru-sa-lem, cả xứ Giu-đê xứ Sa-ma-ri cho đến cùng trái đất”, Ngài đã làm gương cho chúng ta và nếu noi theo Ngài, Ngài sẽ dắt chúng ta vào mùa gặt.
Người đàn bà Sa-ma-ri vô danh này là tín đồ sống kết quả, bà sinh nhiều “trái” (nhiều người tin theo) và tiếp tục “sinh quả” nhiều hơn cho vinh hiển của Đức Chúa Trời (Gi 15:1-5). Không ai biết rõ có bao nhiêu tội nhân đến với Đấng Christ nhờ lời chứng của người đàn bà này (được chép trong đoạn 4).
4. Quan thị vệ (Gi 4:43-54)
Chúa tiếp tục hành trình đến Ga-li-lê (Gi 4:3) và trở lại thành Ca-na. Ga-li-lê thường được biêt đến là “Galil ha Goyim”- Ga-li-lê của dân ngoại. Rõ ràng Chúa nhận thấy xứ Giu-đê (quê hương Chúa) có sự thù địch ngày càng tăng của các chức sắc tôn giáo, dù chưa có sự chống đối ra mặt trong thời gian đầu. Giu-đê chưa hề nhìn biết Ngài dù Ngài được sinh ra tại Bết-lê-hem. Người ta chỉ biết Ngài như vị tiên tri xứ Ga-li-lê (Gi 7:52; Mat 21:11). Ngài hiểu rằng hưởng ứng của dân chúng đối với chức vụ Ngài ở Giê-ru-sa-lem rất giả dối và hời hợt (Gi 2:23-25). Điều đó chẳng có gì tỏ ra tôn trọng Ngài cả.
Vì sao Chúa trở lại thành Ca-na? Có lẽ Ngài muốn chăm sóc “hạt giống” Ngài gieo ra ở đây khi dự tiệc cưới. Na-tha-na-ên xuất thân từ thành Ca-na, nên có lẽ đây cũng là lý do riêng để Chúa thăm thành này. Tại đây, Ngài gặp quan thị vệ thành Ca-bê-na-um là thành cách Ca-na khoảng 20 dặm. Vị quan này đã nghe đồn về phép lạ của Chúa nên đã lặn lội từ xa đến để xin Ngài chữa bệnh cho đứa con trai đang hấp hối. Phép lạ đầu tiên tại thành Ca-na xảy ra do lời thỉnh cầu của mẹ Ngài (Gi 2:1-5) và phép lạ thứ hai do lời cầu xin của một người cha (Gi 4:47).
Vị quan này là người Do-thái hay người ngoại? Chúng ta không rõ đều này, cũng không biết đích xác chức vị của ông trong quốc gia ra sao. Có lẽ ông là một vị quan trong triều Hê-rốt. Dù địa vị xã hội ra sao, ông vẫn là con người yếu đuối bất lực, rất cần sự cứu giúp của Đấng Christ. Ông cứ khẩn thiết nài xin Chúa đến thành Ca-bê-na-um để chữa bệnh con trai ông.
Câu 48 không phải là lời quở trách vị quan này, nhưng là lời than vãn của Chúa về tình trạng thuộc linh của con người nói chung, đặc biệt là xứ Giu-đê và xứ Ga-li-lê. “Thấy mới tin” luôn là một triết lý thực dụng của thế gian hư mất và cả thế giới mộ đạo nữa! Quan thị vệ tin rằng Chúa có thể chữa lành con trai ông. Tuy nhiên, ông đã mắc sai lầm trong tư tưởng: cho rằng Chúa phải đến Ca-bê-na-um mới cứu được đứa trẻ, và nếu cậu bé chết lúc này nghĩa là đã quá muộn!
Chúng ta phải khâm phục đức tin của vị quan này. Chúa chỉ phán “Hãy đi! Con của ngươi sống”, nhưng ông tin theo và quay về nhà. Người đàn bà Sa-ma-ri và cả vị quan vô danh này chắc hẳn đã khiến Chúa rất đẹp lòng khi họ tin Lời Ngài và hành động theo lời phán ấy.
Đứa con trai được chữa lành ngay sau lời phán của Chúa, nên các đầy tớ chạy đi báo tin mừng cho quan thị vệ. (Đó là những đầy tớ chứng kiến việc xảy ra – Gi 2:9; Gi 15:15). Cậu bé được chữa lành vào giờ thứ bảy, theo giờ Rô-ma là 7 giờ tối. Người cha hẳn không muốn ra đi lúc đêm tối, vì rất nguy hiểm, cả các đầy tớ cũng không dám liều lĩnh.
Đức tin người cha này mạnh mẽ đến nỗi chưa muốn về nhà dù lòng ông rất mong gặp đứa con yêu dấu của mình. Khi gặp các đầy tớ vào ngày hôm sau, lời tường thuật của họ làm quan thị vệ càng thêm vững tin. Bạn hãy để ý, thấy rằng người cha chỉ nghĩ sự chữa lành của Chúa sẽ đến từ từ (“đã thấy khá”) nhưng các đầy tớ kể rằng cậu bé lành bệnh hoàn toàn.
Người cha khởi đầu niềm tin bằng sự khủng hoảng. Ông sắp mất con và chỉ còn biết trông cậy nơi Chúa Giê-xu. Nhiều người đã đến với Ngài trong tình trạng vô vọng, nhưng Ngài chẳng quay lưng với họ. Sự hoang mang của quan thị vệ đã trở nên một đức tin mạnh mẽ: ông tin Lời phán của Chúa nên lòng rất bình an, thậm chí chưa muốn về nhà vì biết rằng con mình đã thoát khỏi cơn hiểm nghèo.
Đức tin mạnh mẽ của quan thị vệ đã trở nên một đức tin xác quyết. Cậu bé được chữa lành hoàn toàn, sự chữa lành này xảy ra sau lời phán của Chúa. Sự thật này đã khiến quan thị vệ và cả nhà ông tin theo Chúa. Ông tin Ngài là Đấng Christ –Con Đức Chúa Trời và chia sẻ niềm tin ấy cho cả gia đình. Niềm tin của ông đã gây ảnh hưởng đến những người khác khi ông chia sẻ cho mọi người.
Đây là một trong nhiều phép lạ Chúa Giê-xu thực hiện “từ xa”. Ngài chữa lành đầy tớ thầy đội (Mat 8:5-13) và con gái người đàn bà Ca-na-an theo cách ấy (Mat 15:21-28). Họ là những người ngoại theo cách nói thuộc linh, họ là người “ngày trước cách xa” (Eph 2:12-13). Có lẽ quan thị vệ cũng là người ngoại.
Câu Gi 4:54 không khẳng định sự chữa lành này là phép lạ thứ 2 của Chúa Giê-xu vì như vậy sẽ mâu thuẫn với Gi 2:23 và Gi 3:2. Đây là phép lạ thứ hai Chúa thực hiện tại thành Ca-na xứ Ga-li-lê (Gi 2:1-11). Ngài đã ban cho dân xứ này những đặc ân.
Chúng ta cần biết hai phép lạ trên được thực hiện ở chỗ riêng tư chớ không phải trước đám đông. Bà Ma-ri, các môn đệ và những đầy tớ biết “rượu ngon” từ đâu đến, nhưng khách mời không hề biết. (Dĩ nhiên có lẽ sau đó các đầy tớ đã kể chuyện này cho người khác). Con trai quan thị vệ được chữa lành tại Ca-bê-na-um chớ không phải Ca-na, nhưng tin đồn đã lan nhanh chỉ trong vài ngày.
Phép lạ đầu tiên Chúa làm tại tiệc cưới bày tỏ quyền năng Ngài trên thời gian. Cha trên trời đã sẵn sàng biến nước thành rượu, Ngài thực hiện điều này từ trước, nhưng Chúa Giê-xu “làm ra rượu trong nháy mắt”. Điều này có nghĩa là phép lạ của Ngài là sự bày tỏ những điều Đức Chúa Trời thực hiện. “Cha ta làm việc cho đến bây giờ, ta đây cũng làm việc như vậy” (Gi 5:17). Cha trên trời đã hoá bánh ra nhiều từ trước, nhưng Con Ngài hóa bánh trong nháy mắt.
Ở phép lạ thứ hai, Chúa bày tỏ quyền năng Ngài trên không gian. Ngài bị giới hạn chỉ vì Ngài ở Ca-na và đứa bé bị bệnh ở Ca-bê-na-um. Việc người cha tin lời phán của Chúa dù đến ngày hôm sau mới biết kết quả, đó là chứng cớ về đức tin mạnh mẽ của ông. Ông tin cậy nơi lời Chúa, và chúng ta cũng phải có đức tin ấy.
5. CON NGƯỜI, ĐẤNG BÌNH ĐẲNG VỚI ĐỨC CHÚA TRỜI (Gi 5:1-46)
Hai phép lạ đầu tiên của Chúa Giê-xu được Giăng ghi chép có tính chất thật siêu nhiên. Các đầy tớ vì môn đệ biết Chúa biến nước thành rượu. Những người hầu, quan thị vệ và gia đình ông biết Chúa đã chữa lành đứa con trai bệnh nặng. Phép lạ Chúa thực hiện ở đoạn 5 không chỉ trước nhiều người chứng kiến nhưng Ngài còn làm phép lạ ấy trong ngày Sa-bát gây sự chống đối từ phía các nhà lãnh đạo tôn giáo. Chúng ta thấy đây là khởi đầu của sự bắt bớ chính thức chống lại Cứu Chúa. Đây là một màn kịch có ba hồi rất lý thú.
1. Sự chữa lành (Gi 5:1-15)
Khi tham quan ngôi nhà thờ St. Anne ở Giê-ru-sa-lem, bạn sẽ thấy người ta đã khai quật nơi đây và tìm ra dấu vết của ao Bê-tết-đa ngày xưa. Tiếng Hê-bơ-rơ của tên Bê-tết-đa được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Một số cho rằng nó có nghĩa là “nhà của tình thương” hay “nhà ân điển”, nhưng số khác nói rằng đó là chỗ của hai nguồn nước”. Chứng cớ về lịch sử và khảo cổ học cho thấy trước đây có 2 hồ nước kế cận nhau cung cấp cho cả vùng này. Ao Bê-tết-đa này nằm gần phía đông bắc của thành phố cũ, gần Cửa Chiên (Ne 3:1 Ne 12:39). Có lẽ Giăng đã tìm ra một ý nghĩa thuộc linh nào đó đối với vị trí này, vì ông đã cho người đọc biết rằng Chúa Giê-xu là “Chiên Con của Đức Chúa Trời” (Gi 1:29).
Chúng ta không biết Chúa lên Giê-ru-sa-lem để dự lễ nào, nhưng điều đó không quan trọng. Mục đích của Chúa không phải để duy trì một hình thức tôn giáo nhưng để chữa lành một người và thực hiện phép lạ làm nền tảng cho một bài giảng của Ngài trước đám đông. Phép lạ này chứng minh điều Ngài phán ở Gi 5:24 – đó là quyền năng của Lời Ngài và sự sống đời đời.
Có thể đúng khi một số bản dịch Kinh Thánh bỏ đi phần cuối Gi 5:3,4, nhưng thật đúng với biến cố (kể cả lời của người bại trong Gi 5:7) sẽ chẳng có mấy ý nghĩa nếu những câu này bị bỏ đi. Tại sao nhiều người đặc biệt là người bại nhiều năm như vậy cứ trụ lại tại một chỗ nếu không có gì đặc biệt xảy ra?
Bạn có thể nghĩ rằng sau 38 năm chờ đợi không có gì xảy ra, ngoài ngày phải dời đi chỗ khác và thôi hi vọng. Chúng ta phải có sự khôn ngoan để thấy rằng hẳn điều kỳ diệu nào đó đã giữ những con người bệnh tật này tại ao với hy vọng được chữa lành.
Theo sự mô tả của Giăng, họ là những con người “đau ốm, mù quáng tàn tật, bại xuội” (Gi 5:3). Quả thật, tội lỗi đã gây nên thảm trạng trên thế gian! Nhưng sự chữa lành là một trong những công việc được báo trước của Đấng Mê-si-a (Es 35:3-6). Các nhà lãnh đạo tôn giáo cũng biết Kinh Thánh, lẽ ra họ đã nhận biết Đấng Cứu chuộc của mình, nhưng tâm linh họ đã bị mù loà.
Dù nhìn xem phép lạ này ở góc độ nào, đó vẫn là một minh chứng về ân điển của Đức Chúa Trời. Ân điển đã khiến Chúa Giê-xu đến ao Bê-tết-đa, Ngài là Đấng muốn gần gũi với những con người tuyệt vọng khốn cùng! Ngài không chữa lành tất cả nhưng chỉ chữa cho một người. Hành động Chúa đến với người bại này, chuyện trò, chữa lành ông và còn gặp lại ông lần nữa trong đền thờ, đó là chứng cớ về ân điển và lòng thương xót vô hạn của Ngài.
Giăng cho biết người bại liệt đã mắc bệnh 38 năm. Có lẽ qua đó, Giăng nhìn thấy hình ảnh dân Do-thái đi trong đồng vắng suốt 38 năm (Phuc 2:14). Theo cách nói thuộc linh, dân Y-sơ-ra-ên là dân tộc “bất lực” đang mòn mỏi chờ đợi một điều gì đó xảy đến.
Chúa Giê-xu biết rõ tình trạng của người bại (Gi 2:23-24) nên Ngài hỏi ông rằng ông có muốn được chữa lành hay không. Bạn có thể nghĩ người này sẽ đáp lại cách nhiệt thành: “Vâng, tôi muốn được lành” Trái lại, ông ta bắt đầu viện lý do! Ông đã ở trong tình trạng bi thảm này quá lâu đến nỗi ý chí ông cũng bị tê liệt như thân thể ông vậy. Tuy nhiên, nếu so sánh câu 6 với câu 40, bạn sẽ thấy Chúa Giê-xu cũng có một bài học thuộc linh. Người bại này đại diện cho tình trạng thuộc linh bi thảm của dân tộc Do-thái.
Chúa chữa lành người bại bằng quyền năng của lời phán Ngài. Ngài bảo người bại làm một việc ngoài khả năng ông ta, nhưng đây chính là quyền linh nghiệm trong lời truyền của Ngài (He 4:12; Mac 3:5). Sự chữa lành xảy ra tức thì, có sự chứng kiến của nhiều người quanh ao nước, Chúa không dừng lại để chữa lành thêm bất cứ ai khác, nhưng Ngài “đi khỏi” (tiếng Hy-lạp có nghĩa như ”lẩn tránh”) nơi đó, vì không muốn để xảy ra một vấn đề rắc rối nào.
Nếu Chúa không thực hiện phép lạ này trong ngày Sa-bát, chắc sẽ không có vấn đề gì đáng nói. Dĩ nhiên Ngài có thể đến đây trước một ngày hay chờ cho hết ngày Sa-bát, nhưng Ngài muốn gây chú ý cho các chức sắc đền thờ. Sau đó, Ngài cũng chữa lành người mù trong ngày Sa-bát (Gi 9:1-14). Các thầy thông giáo đã nêu lên danh sách 39 điều cấm kỵ trong ngày Sa-bát, trong số đó việc mang gánh nặng. Thay vì chung niềm vui được lành bệnh của người bại, các nhà lãnh đạo này lại tố cáo ông ta phạm luật. Vì đã vác giường đi trong ngày Sa-bát!
Chúng ta không dễ hiểu rõ mối liên hệ giữa người này với Chúa Giê-xu ra sao. Không có chứng cớ gì cho thấy ông tin Chúa và được thay đổi, nhưng cũng không thể nói rằng ông nghịch lại với Đấng Christ. Thật ra, ông không biết ai đã chữa lành cho mình cho đến lúc gặp Chúa Giê-xu trong đền thờ. Hẳn ông đến đền thờ để dâng lời tạ ơn Đức Chúa Trời và dâng Ngài của lễ thích hiệp. Thật kỳ lạ khi người này không chịu tìm kiếm mối liên hệ mật thiết hơn với Đấng đã chữa lành mình. Nhiều người cũng từng đón nhận ơn phước cách khiêm cung, nhưng lại vô tâm với Đấng Ban Cho.
Phải chăng người này “thông báo” cho người Giu-đa biết về Chúa Giê-xu vì sợ hãi? Chúng ta không rõ điều này. Người Giu-đa chỉ nhắm vào mục đích tố cáo Chúa Giê-xu, chớ không quan tâm gì đến người được chữa lành này cả. Không giống như người mù được chữa lành ở đoạn 9, người bại được lành này không bị rút phép thông công.
Lời Chúa phán ở Gi 5:14 cho thấy tình trạng thuộc thể bi đát của ông ta là hậu quả của tội lỗi. Ngài không có ý cho rằng tội lỗi người này được tha như Ngài từng nói với người bại được dòng từ mái nhà xuống (Mac 2:1-12). Dù kinh nghiệm được một phép lạ kỳ diệu, cũng chưa hẳn là được cứu rỗi và hưởng Nước thiên đàng!
2. Sự tranh luận (Gi 5:16-18)
Các nhà lãnh đạo Do-thái không truy tố người được chữa lành dù ông ta “phạm” luật Sa-bát, họ chỉ muốn bắt bớ Chúa Giê-xu. Với tư cách là những người bảo vệ tôn giáo, một số thành viên của Toà Công Luận (hội đồng xét xử trong giáo hội) có nhiệm vụ tìm hiểu những người giảng đạo và giáo sư mới đến trong xứ, nhằm ngăn chặn tình trạng tiên tri giả trà trộn vào dẫn dụ dân sự. Chức vụ của Giăng Báp-tít cũng bị dò xét (Gi 1:19). Và bây giờ lại có thêm nhiều người xét nét chức vụ của Chúa Giê-xu.
Chúa Giê-xu đã chữa lành cho một người bị quỷ ám trong ngày Sa-bát (Lu 4:31-37) nên toà Công Luận đã để tâm nghi ngờ. Vài ngày sau khi thực hiện phép lạ chép trong đoạn 5, Chúa đã bênh vực lý lẽ cho các môn đệ về việc họ bứt bông lúa mì trong ngày Sa-bát (Mat 12:1-8) Ngài cũng chữa lành một người bị teo tay trong ngày Sa-bát (Mat 12:9-14).
Ngài không ngại đối đầu với những truyền thống lễ nghi của người Pha-ri-si và các thầy thông giáo. Ngày Sa-bát là ngày Đức Chúa Trời ban cho con người, thế nhưng họ đã biến ngày ấy thành nhà tù của những lề luật khe khắt.
Khi họ tố cáo Chúa Giê-xu về những việc làm được cho là phạm luật, Ngài chỉ đáp Ngài đang làm những gì cha Ngài đang làm (Gi 5:17). Sự yên nghỉ trong ngày Sa-bát của Đức Chúa Trời đã bị tội lỗi loài người phá vỡ (Sa 3:1-24) và kể từ khi loài người phạm tội, Đức Chúa Trời luôn tìm kiếm tội nhân hư mất để cứu họ.Khi Chúa phán “Cha ta” thay vì nói “Cha chúng ta” như dân Do-thái thường dùng, Ngài muốn tuyên bố rằng Ngài bình đẳng với Đức Chúa Trời.
Các nhà lãnh đạo Do-thái hiểu ngay lời tuyên bố của Chúa, nên họ từ chỗ tố cáo Ngài phạm luật Sa-bát, đã cáo Ngài thành tội lộng ngôn, vì Ngài tuyên bố mình là Đức Chúa Trời. Những nhà thần học nào nói rằng Chúa Giê-xu chưa bao giờ xưng Ngài là Đức Chúa Trời hẳn sẽ rất bối rối khi xem đoạn Kinh Thánh này.
Dĩ nhiên bản án dành cho tội lộng ngôn sẽ là tử hình. Từ đây người ta công khai tố cáo Chúa, dẫn đến việc Ngài bị đóng đinh trên thập tự giá. Những ngày kế tiếp, Chúa thường chạm trán với những kẻ thù nuôi ý đồ giết Ngài (Gi 7:19,25; Gi 8:37,59). Ngài bị họ ghét một cách vô cớ (Gi 15:18-25). Họ chỉ nghĩ đến ý định “tiêu diệt” Ngài, chớ chẳng quan tâm đến những việc tốt đẹp Ngài đã làm cho những kẻ khốn cùng vô vọng.
Ngài tự nhận mình ngang hàng với Đức Chúa Trời, bởi chính Ngài là Đức Chúa Trời! Đây là chủ đề lớn của Phúc-âm Giăng. Các nhà lãnh đạo Do-thái không thể bác bỏ được lời chứng của Ngài nên lập mưu giết Ngài. Sự chết và sự sống lại của Chúa Giê-xu khẳng định mạnh mẽ thần tính Ngài. Đó cũng là vũ khí chống trả lại kẻ thù Ngài.
Nhà văn người Anh George Mac Donald nói rằng Gi 5:17 cho chúng ta cái nhìn sâu sắc về những phép lạ của Chúa Giê-xu Ngài thực hiện tức thì những điều Cha trên trời vẫn luôn làm đều đặn. Ví dụ như Đức Chúa Trời hoá nước thành rượu từng giai đoạn, nhưng Chúa Giê-xu thực hiện trong nháy mắt. Bởi quyền phép siêu nhiên Đức Chúa Trời chữa lành những thân thể hư hoại và Chúa Giê-xu chữa lành kẻ bệnh hoạn trong tức khắc. Thiên nhiên luôn sản sinh ra vật thực một cách tuần hoàn, nhưng Chúa Giê-xu hoá bánh ra nhiều cách nhanh chóng bằng đôi tay Ngài.
3. Những lời xác nhận (Gi 5:19-47)
Để đáp lời tố cáo, Chúa Giê-xu đưa ba lời xác nhận có ý nghĩa chứng minh cho địa vị làm Con Đức Chúa Trời của Ngài:
-Thứ nhất: Ngài tuyên bố rằng mình bình đẳng với Đức Chúa Trời (Gi 5:19-23). Thay vì chối bỏ lời buộc tội, Ngài tán đồng sự thật đó! Nếu hôm nay có ai đó cũng tuyên bố như vậy, chúng ta sẽ cho rằng đây là người bị chứng tâm thần hoặc chỉ nói đùa. Lẽ dĩ nhiên, Chúa không hề “tâm thần”.
Ngài tỉnh táo minh chứng cho lời tuyên bố của mình. Hoặc Ngài nói thật, hoặc Ngài là kẻ nói dối. Nếu Ngài nói dối, bạn sẽ giải thích ra sao về những việc tốt lành Ngài đã làm cho những kẻ khốn khổ? Không ai muốn tin vào một lời dối trá. Các môn đệ của Chúa đều sẵn sàng chết cho Ngài.
Chúa Giê-xu tuyên bố Ngài là một với Cha trong mọi việc Ngài làm. Nếu chữa bệnh trong ngày Sa-bát là “tội lỗi”, vậy Đức Chúa Trời mới là Đấng “đáng trách” Chúa Giê-xu không hành động điều gì do ý Ngài, nhưng làm những gì Cha trên trời đang thực hiện. Cha và Con đồng công với nhau, cũng làm những công việc theo một cách giống nhau. “Ta với Cha là một” (Gi 10:30).
Khi hiện thân làm người trên đất, Chúa Giê-xu phó thác mình cho Cha trong mọi sự “Đây này, tôi đến để làm theo ý muốn Chúa” (He 10:8). Ngài đã từ bỏ vinh hiển và quyền tự do hành xử các thuộc tính thiên thượng của mình. Trong đồng vắng, Ngài bị Sa-tan cám dỗ để dùng đến quyền năng thiên thượng vì chính mình, nhưng Ngài từ chối và hành động cách dứt khoát. Trong mọi sự Ngài vâng theo ý Cha và Thánh Linh Đức Chúa Trời.
Đức Chúa Trời không chỉ bày tỏ cho Con công việc Ngài và giúp Con thực hiện công việc ấy, nhưng Cha còn chia sẻ tình yêu cho Con (He 5:20). Ba sách Phúc-âm Mã-thi, Mác, Lu-ca mở đầu bằng lời phán của Đức Chúa Trời dành cho Chúa Giê-xu “Con yêu dấu của ta” và Giăng nhắc lại ý niệm này ở Gi 3:35. Chúng ta thường nghĩ đến tình yêu Đức Chúa Trời dành cho thế gian hư mất (như ở Gi 3:16), nhưng cũng nên nhớ đến tình yêu Cha trên trời dành cho “Con yêu dấu” của Ngài.
Vì yêu Con, Cha bày tỏ công việc Ngài cho Con. Các nhà lãnh đạo Do-thái không hiểu được điều Chúa Giê-xu muốn nói, vì họ không biết Cha, cũng không nhận ra Con. Cha còn thực hiện những việc lớn hơn, là những việc bọn họ không thể ngờ. Có lẽ Chúa đã có trong trí việc chữa lành La-xa-rơ khi nhắc đến vấn đề kẻ chết được sống lại ở Gi 5:21.
Dưới mắt các quan Do-thái, việc Chúa tuyên bố Ngài có quyền khiến kẻ chết sống lại là tội lộng ngôn vì chỉ có Đức Chúa Trời mới có quyền ấy. Họ cho rằng Đức Chúa Trời là Đấng giữ ba chìa khóa lớn: chìa khóa mở trời và giáng mưa (Phuc 28:12), chìa khóa mở lòng mẹ và ban sự sinh sản (Sa 30:22) và chìa khóa mở cửa mồ khiến kẻ chết sống lại (Exe 37:13).
Đến giai đoạn này trong các sách Phúc-Âm, Chúa vẫn chưa thực hiện phép lạ nào khiến kẻ chết sống lại, nên lời tuyên bố của Ngài càng gây thêm sự chống đối mạnh mẽ! Câu Gi 5:21 chắc hẳn mang nhiều ý nghĩa vượt hơn việc khiến kẻ chết sống lại về thuộc thể, vì Chúa muốn liên hệ sâu xa đến sự sống thuộc linh mà Ngài có thể ban cho những kẻ chết về tâm linh. Ngài giải thích rõ về lẽ thật này như đã chép trong Gi 5:24-29.
Chúa Giê-xu tuyên bố Ngài bình đẳng với Cha trong việc làm, Ngài cũng tuyên bố mình bình đẳng với Cha trong việc xét đoán (Gi 5:22). Đối với người Do-thái chính thống, Đức Chúa Trời là “Đấng đoán xét cả thế gian” (Sa 18:25).
Vì vậy không ai dám áp dụng danh hiệu oai nghiêm ấy cho chính mình. Chỉ có Chúa Giê-xu làm điều ấy! Qua lời tuyên bố Ngài là Đấng xét đoán, Ngài cũng muốn nói rằng: Ngài là Đức Chúa Trời. “Vì Ngài đã chỉ định một ngày, khi Ngài sẽ lấy sự công bình đoán xét thế gian, bởi Người Ngài đã lập” (Công 17:31).
Chúa Giê-xu còn tuyên bố quyền bình đẳng của Ngài với Cha ở lãnh vực khác, đó là: “được tôn kính” giống như Cha (Gi 5:23). Việc Ngài là Đấng đoán xét được chỉ định từ trước, cũng đủ để con người phải tôn kính Ngài. Thật là lời tuyên bố kỳ lạ! Nếu không tôn kính Con – bạn sẽ không tôn kính Cha! Những kẻ “mộ đạo” nào cho rằng mình thờ phượng Đức Chúa Trời, nhưng chối bỏ quyền của Đấng Christ, những kẻ ấy sẽ không có Cha và Con, không bởi Chúa Giê-xu, bạn không thể biết Đức Chúa Trời, thờ phượng và hầu việc Ngài được.
-Thứ hai: Chúa Giê-xu còn tuyên bố rằng Ngài có quyền khiến kẻ chết sống lại (Gi 5:24-29). Ngài bày tỏ về chính mình bằng lời uy nghi “quả thật, quả thật” (Gi 5:19,24,25). Hơn 20 lần trong Phúc-âm Giăng, bạn sẽ thấy Chúa sử dụng cách nói trang trọng này. Ngài như muốn nói rằng: “Hãy để tâm đến điều này. Điều ta sắp nói rất quan trọng!”
Ở phần Kinh Thánh hấp dẫn này, Chúa nói đến bốn sự sống lại khác nhau (Gi 5:24-25; Eph 2:1-10). Ngài mô tả sự sống lại của tội nhân trong sự sống đời đời. Tội nhân hư mất tựa như một xác chết không có sự sống và vô phương cứu chữa. Dù cho người lo việc tang lễ có tắm rửa xác chết, nó vẫn là xác chết! Không có vấn đề “xác chết này tệ hơn xác chết nọ”. Nếu đã chết bạn là người chết! Tội nhân hư mất không thể tự cứu mình và dĩ nhiên không thể ban cho chính mình sự sống.
Những tội nhân “đã chết” được “sống lại” ra sao? Khi họ nghe lời Đức Chúa Trời và tin Con Ngài.
(1). Bởi Lời Chúa kẻ bại tại ao nước được chữa lành (Gi 5:8).
Khi Lời Ngài được phán ra, kẻ chết được sống lại (Lu 7:11-17; Lu 8:49-56; Gi 11:41-44).
“Lời Ngài là Lời sống và linh nghiệm” (He 4:12) khiến tội nhân hư mất sống lại từ cõi chết thuộc linh. “Sự sống đời đời” nghĩa là người được sống sẽ không bao giờ chết về mặt tâm linh nữa và cũng không bị đoán phạt (Rô 8:1). Nghe Lời Chúa và tin theo đồng nghĩa với “được cứu rỗi”, nhưng chối bỏ Lời Ngài là chuốc cho mình “sự xét đoán” (Gi 12:48).
(2). Sự sống lại thứ hai là sự phục sinh của Chúa Giê-xu (Gi 5:26). Sự sống của chúng ta bắt nguồn từ một sự sống khác, nhưng sự sống của Ngài chính là “nguồn cội” của mọi sự sống: “Trong Ngài có sự sống” (Gi 1:4). Mồ mả không thể giữ được Ngài vì Ngài là “Chúa của sự sống” (Công 2:24; Công 4:15). Ngài đã phó sự sống mình và có quyền lấy lại (Gi 10:17-18). Vì là cội nguồn của sự sống nên Ngài có thể ban phát sự sống cho mọi kẻ tin nhận Ngài.
(3). Sự sống lại thứ ba, gọi là sự sống lại trong kỳ sau rốt khi những người tin Chúa được sống lại từ cõi chết (Gi 5:28-29). Lẽ thật này được giải thích ở ITês 4:13-18 và ICôr 15:1-58. Hãy nhớ rằng sự sống lại này không phải là “sự tái tạo”. Đừng cho rằng Đức Chúa Trời sẽ chắp vá những mảnh da thịt của người chết lại với nhau! Thân thể sống lại là thân thể mới, vinh hiển, phù hợp với môi trường mới trên thiên đàng.
Sự chết chưa phải là kết thúc cuối cùng của người tin Chúa. Người ấy cũng sẽ không sống nơi thiên đàng như một linh hồn không có xác. Đức Chúa Trời cứu rỗi con người cách trọn vẹn, linh hồn và cả thể xác (Rô 8:23; Phi 3:20-21). Sự sống lại này sẽ xảy ra khi Chúa Giê-xu tái lâm nơi không trung để kêu gọi những kẻ thuộc về Ngài.
(4). Sự sống lại thứ tư là sự sống lại để chịu xét đoán (Phi 5:29b). Sự sống lại này dành cho kẻ hư mất, xảy ra trước khi Chúa Giê-xu bước vào trời và đất mới (Kh 20:11-15). Thật đáng kinh khiếp, khi mọi kẻ chết “lớn và nhỏ” đứng hầu trước Chúa Giê-xu! Cha trên trời đã giao quyền xét đoán cho Con (Kh 5:22) và cũng ban cho Ngài quyền thi hành sự xét đoán này (Kh 5:27). Hôm nay, Chúa Giê-xu là Đấng Christ. Nhưng ngày kia, Ngài sẽ ngồi nơi ghế của Đấng xét đoán!
Danh hiệu “Con Người” được sử dụng trong Gi 5:27 có liên hệ với Da 7:13-14 và là danh nói về Đấng Mê-si-a. Danh hiệu này được sử dụng 12 lần trong Phúc-Âm Giăng và hơn 80 lần trong cả 4 sách Phúc-Âm. Dân Do-thái đều biết đến danh hiệu này do đã đọc sách Đa-ni-ên. Vì vậy, khi Chúa nói đến danh hiệu ấy, họ hiểu Ngài muốn tuyên bố rằng Ngài là Đấng Mê-si-a.
– Đấng xét đoán_
Những người thuộc về Chúa sẽ sống với thân thể mới để đồng cai trị với Đấng Christ trong sự vinh hiển. Những kẻ vô tín sẽ sống với thân thể mới, nhưng không phải là thân thể vinh hiển, để chịu đoán xét và chịu khổ trong thân thể ấy. Những thân thể từng phục vụ cho tội lỗi phải chịu hậu quả của tội lỗi!
Chúa Giê-xu có quyền khiến kẻ chết sống lại, chứng tỏ Ngài bình đẳng với Đức Chúa Trời, nghĩa là: Ngài là Đức Chúa Trời.
Lời chứng thứ 3 của Chúa cho thấy có những chứng nhân xác thực làm chứng về thần tính Ngài (Gi 5:30-47). Từ “làm chứng” là từ mang ý nghĩa sâu sắc được Giăng sử dụng 47 lần. Chúa đã làm chứng về chính mình Ngài, nhưng Ngài biết rằng họ không tin nên Ngài đưa ra 3 chứng cớ khác.
• Chứng thứ 1 là Giăng Báp-tít (Gi 5:30-35), người mà các nhà lãnh đạo tôn giáo đã chất vấn kỹ càng (Gi 1:15). Thật ra, vào cuối kỳ chức vụ, Chúa Giê-xu cho các cấp cầm quyền biết chứng về Giăng Báp-tít (Mat 21:23-27). Giăng Báp-tít biết Chúa Giê-xu là ai nên ông trung tín rao giảng điều mình biết cho dân Y-sơ-ra-ên Giăng tuyên bố Giê-xu là Chúa (Gi 1:23), Chiên Con của Đức Chúa Trời (Gi 1:29,36)và Con Đức Chúa Trời (Gi 1:34). Giăng là “ngọn đèn” được thắp lên và cháy sáng (Chúa Giê-xu là “sự sáng” (Gi 8:12), vì vậy dân Do-thái bị lôi cuốn vào công việc của Giăng.
Tuy nhiên, sự nhiệt tình ấy cũng nguội lạnh dần. Không ai muốn tình nguyền giải cứu Giăng khi ông bị vua Hê-rốt giam cầm. Các nhà lãnh đạo xem Giăng như “người nổi danh trong vùng” (Mat 11:7-8), nhưng không muốn tiếp nhận sứ điệp ăn năn của ông để được đổi mới. Những người thu thuế và kẻ có tội đến cùng Giăng, tiếp nhận sứ điệp và được thay đổi, còn các lãnh đạo tôn giáo đền thờ không muốn đầu phục Đức Chúa Trời (Mat 21:28-32).
Khi Đức Chúa Trời lập lên một lãnh đạo thuộc linh để dẫn dắt dân sự, luôn luôn có tình trạng dân sự bị cuốn hút bởi “vinh quang” của người lãnh đạo chớ không muốn vâng theo lệnh của người ấy. Đám đông hỗn tạp đi theo Môi-se và dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập, đó là những người kinh ngạc trước phép lạ nhưng không đầu phục Đức Chúa Trời.
Các tiên-tri, các sứ-đồ và những lãnh đạo nổi tiếng trong lịch sử Hội thánh đều phải chịu đựng những kẻ hời hợt muốn đi theo “đám đông” chớ không muốn vâng theo lẽ thật. Những Hội thánh lớn hôm nay cũng có sự hiện diện của những con người này!
• Chứng thứ hai là những phép lạ của Chúa (Gi 5:36).
Giăng đã chọn ra 7 dấu lạ trong Phúc-Âm của ông để chứng minh Chúa Giê-xu là Con Đức Chúa Trời (Gi 20:30-31), Chúa Giê-xu cũng phán rằng công việc của Ngài là việc của Cha trên trời (Gi 5:17-20; Gi 14:10). Cả Ni-cô-đem cũng thừa nhận phép lạ của Chúa khiến ông nhìn biết Ngài là Đấng “từ Đức Chúa Trời đến” (Gi 3:2).
Kinh Thánh còn ghi chép những phép lạ được những con người bình thường thực hiện: Môi-se, Ê-li, Phao-lô. Phải chăng những phép lạ này cũng chứng minh rằng họ “được Đức Chúa Trời sai đến?” Đúng vậy (Hêb 2:3,4), nhưng không ai tuyên bố mình chính là Con Đức Chúa Trời. Không tôi tớ nào của Đức Chúa Trời có thể thực hiện công việc quyền năng của Ngài lại dám tuyên bố như vậy. Lời tuyên bố của Chúa Giê-xu được chứng minh bằng những công việc quyền năng của Ngài và bằng đời sống trọn lành của Ngài. Chứng cớ ấy cho thấy lời tuyên bố của Ngài là sự thật.
Chúa Giê-xu cho biết Cha trên trời đã giao Ngài một nhiệm mạng cụ thể khi hiện diện trên đất. “Con đã tôn vinh Cha trên đất, làm xong công việc Cha giao cho làm” (Gi 17:4). Ngài không chỉ sống theo một thời gian biểu từ trời mà còn làm theo chương trình của Cha trên trời. Ngài phải hoàn tất những công việc cụ thể trong ý muốn của Cha.
Theo luật pháp Cựu-ước, một lời chứng phải có sự xác nhận của hai hay ba người (Dan 35:30; Phuc 17:6), và Chúa Giê-xu đã đáp ứng yêu cầu ấy khi Ngài đưa ra ba nhân chứng đáng tin cậy.
Chứng thứ ba và cuối cùng của Chúa Giê-xu, đó là Lời của Đức Chúa Trời (Gi 5:37-47). Dân Do-thái rất tôn kính Lời Đức Chúa Trời, đặc biệt là (Sách) Luật pháp Môi-se đã viết ra. Môi-se nghe tiếng Đức Chúa Trời và chứng kiến vinh quang của Ngài, còn chúng ta nghe tiếng Ngài và ngắm xem vinh hiển Ngài qua Lời linh nghiệm của Ngài (IPhi 1:12-21).
Cả Cựu-ước làm chứng về Chúa Giê-xu vậy mà những kẻ tin theo và học Kinh Thánh lại không nhận biết Đấng mà Môi-se nói đến. Vì sao?
Trong một phương diện, họ không để cho Lời khơi động niềm tin trong lòng mình (Gi 5:38). Câu Gi 5:39 nói lên một thực trạng chớ không phải là mệnh lệnh: “Các ngươi dò xem Kinh Thánh vì tưởng bởi đó được sự sống đời đời?” Các thầy thông giáo Do-thái tìm tòi để biết Lời Đức Chúa Trời, nhưng không hề biết Đức Chúa Trời của lời ấy. Họ đếm từng chữ cái của bản văn Kinh Thánh, nhưng không hiểu lẽ thật thuộc linh chứa đựng trong đó.
Do hầu việc Chúa qua đài phát thanh, tôi thường nhận những bức thư của một số người bất đồng với cách giải nghĩa Kinh Thánh của tôi, thậm chí bày tỏ sự giận dữ cao độ! (Tôi không thể trích dẫn lời lẽ tôi đã đọc được từ những người tự nhận mình là Cơ-đốc nhân). Đáng buồn thay khi việc học Kinh Thánh của chúng ta khiến chúng ta trở nên kiêu căng và đầy lòng khiêu khích thay vì khiêm nhường và muốn phục vụ kẻ khác, ngay cả những người bất đồng quan điểm với chúng ta.
Dấu hiệu của việc học Kinh Thánh thật không phải là “một trí thức” làm cho kiêu căng nhưng là “sự yêu thương” làm gương tốt cho người khác (ICôr 8:1).
-Các lãnh đạo Do-thái đã quan niệm sai lầm: họ không nhìn biết Đấng Christ trong Kinh Thánh (IICôr 3:14-18 IICôr 4:3-6).
-Ý chí của họ cũng bị lạc lối: họ không tin nơi Đấng Christ. Vì không có Lời Chúa trong lòng, họ cũng không muốn tiếp nhận Đấng Christ vào lòng. Họ là những kẻ “theo đạo” kiêu căng nhưng không được cứu.
-Họ cũng mắc sai lầm thứ ba: thiếu sự yêu mến trong lòng. “Các ngươi chẳng có sự yêu mến Đức Chúa Trời ở trong các ngươi” (Gi 5:12).
-Họ không có sự từng trải về tình yêu Đức Chúa Trời dành cho mình cũng như sự bày tỏ lòng yêu mến của bản thân đối với Đức Chúa Trời. Họ tự nhận là người yêu mến Chúa, nhưng thái độ của họ đối với Chúa Giê-xu chứng tỏ tình yêu của họ là sự giả dối.
Thái độ của họ đối với Lời Đức Chúa Trời làm đức tin họ bị nghẹt ngòi, và thái độ của họ đối với bản thân cũng như đối với tha nhân cũng gây trở ngại cho đức tin họ. Người Pha-ri-si rất thích được kẻ khác tôn kính mình (Mat 23:1-12), chớ không muốn tìm kiếm sự vinh hiển từ Đức Chúa Trời, Đấng duy nhất đáng được tôn quí. Họ không tôn kính Con (Gi 5:23) chỉ vì Ngài không” tôn kính” họ! Vì chối bỏ Con Đức Chúa Trời chân thật là Đấng nhân danh Cha mà đến, ngày nào đó họ sẽ tiếp nhận Christ giả là kẻ lấy danh riêng mà đến (Gi 5:43; IITês 2:1-17; Kh 13:1-18). Nếu khước từ những gì chân thật, chúng ta sẽ nhận những điều gian dối!
Chúa kết thúc bài giảng sâu sắc bằng lời khuyến cáo các lãnh đạo Do-thái rằng Môi-se, người họ kính trọng sẽ tố cáo họ chớ không cứu được họ. Chính Lời Kinh Thánh họ từng sử dụng để bảo vệ tư tưởng mình sẽ làm chứng nghịch cùng họ. Dân Do-thái biết những lời Môi-se viết nhưng thật sự không tin nơi lời ấy. Có lời Chúa trong tay hay trong đầu và giữ lời ấy trong lòng là hai việc hoàn toàn khác nhau. Chúa Giê-xu là Ngôi Lời trở thành xác thịt (Gi 1:14) và Lời được chép ra làm chứng cho Ngôi Lời đã hiện thân trong xác thịt. “Ngài bắt đầu từ Môi-se rồi kế đến mọi Đấng tiên tri mà cắt nghĩa cho hai người đó những lời chỉ về Ngài trong cả Kinh Thánh” (Lu 24:27).
Lời chứng từ Giăng Báp-tít, từ các phép lạ kỳ diệu, từ lời Đức Chúa Trời tất cả đều bày tỏ rằng Chúa Giê-xu thật sự là Đấng làm một với Cha và cũng chính là Con Đức Chúa Trời.
Chúa chúng ta không sợ hãi trước lời tố cáo của các những lãnh đạo tôn giáo. Nếu kiểm tra lại sự hài hoà giữa các sách Phúc-Âm, bạn sẽ thấy rằng sau những sự kiện chép ở đoạn 5, Chúa Giê-xu có chủ ý “phạm” đến ngày Sa-bát một lần nữa.Ngài cho phép các môn đệ bứt bông lúa mì và chữa lành người teo tay trong ngày Sa-bát (Mat 12:1-14). Những việc này có thể xảy ra ở Ga-li-lê, nhưng tin đồn đã đến tai các quan trưởng tại Giê-ru-sa-lem và xứ Giu-đê.
Việc chữa bệnh trong ngày Sa-bát lại được nhắc đến (Gi 7:21-23). Các lãnh đạo cứ bảo vệ cho hình thức tôn giáo thay vì phải hiểu lẽ thật (Mac 7:1-13). Tuy nhiên, trước khi xét đoán họ, có lẽ chúng ta nên tra xét lại đời sống mình và tình trạng Hội thánh mình. Phải chăng chúng ta cũng đang hài lòng với hình thức thờ phượng quen thuộc đến nỗi không nhìn biết lẽ thật của Lời Đức Chúa Trời? Phải chăng chúng ta quá quan tâm đến “bài học Kinh Thánh” đến nỗi không nhìn thấy Đấng Christ qua Kinh thánh?” Hiện nay tri thức về Kinh Thánh của chúng ta có cho chúng ta một “cái đầu vĩ đại” một tấm lòng nóng cháy” không?
6. CHÚA GIÊ-XU MẤT QUẦN CHÚNG (Gi 6:1-71)
Vì Phúc-âm Giăng được viết có chọn lọc (Gi 20:30-31), nên ông đã bỏ bớt những sự kiện khác trong cuộc đời Chúa Giê-xu để thực hiện mục đích viết Phúc-Âm của mình. Giữa sự kiện Chúa chữa lành người bại (Gi 5:1-47) và việc Ngài nuôi 5.000 người, đã xảy ra những sự kiện khác được chép ở Lu 6:1-9:10 và Mac 3:1-6:30.Trong khoảng thời gian này Chúa Giê-xu ban “Bài Giảng Trên Núi” (Mat 5:1-7:29)và đưa ra những ví dụ về Nước Trời (Mat 13:1-52).
Việc nuôi 5.000 người là một phép lạ có ý nghĩa lớn lại được phép ở cả 4 sách Phúc-Âm. Đám đông theo Chúa Giê-xu trong 7 ngày, nghe Ngài dạy dỗ và chứng kiến phép lạ Ngài làm. Ngài muốn “lẩn” đi để nghỉ ngơi, nhưng nhu cầu của đoàn dân khiến Ngài động lòng (Mac 6:31-34). Bởi sự thương xót, Ngài đã đến giúp đỡ đoàn dân đông qua 3 phương diện.
1. Nuôi đoàn dân đông (Gi 6:1-14)
Dĩ nhiên, nan đề khó giải quyết ở đây là làm sao để đáp ứng nhu cầu của đoàn dân đông ngần ấy? Có 4 cách giải quyết được nêu ra:
-Thứ nhất các môn-đệ đề nghị Chúa cho dân chúng về (Mac 6:35-36). Họ như muốn nói: “Hãy lẩn tránh nan đề!” (Mat 15:23). Chúa biết những con người đói khát này sẽ ngất xỉu trên đường nếu không ai cho họ ăn. Trời đã tối (Mat 14:15) và không đủ thời gian để họ trở về.
-Giải pháp thứ hai do Phi-líp đề nghị khi ông trả lời câu hỏi “thử” của Chúa (Gi 6:5): phải quyên tiền để mua thức ăn cho dân chúng. Phi-líp tính toán và rồi cho rằng cần phải có một số tiền tương đương với hai trăm ngày công. Và ngay cả với số đó cũng không thể làm thoả mãn những con người đang đói khát chờ đợi ở đây (Mat 14:21). Chúng ta thường nghĩ rằng tiền bạc đáp ứng được mọi nhu cầu. Dĩ nhiên, Chúa chỉ muốn thử đức tin của Phi-líp mà thôi.
-Giải pháp thứ ba do Anh-rê đề nghị, nhưng ông hoàn toàn không hiểu nan đề sẽ được giải quyết ra sao. Ông tìm thấy một cậu bé mang theo phần ăn khiêm nhường: năm cái bánh và hai con cá. Một lần nữa, Anh-rê lại bận rộn với việc dẫn người đến với Chúa Giê-xu (Gi 1:40-42; Gi 12:20-22). Nhưng chúng ta không biết Anh-rê đã gặp cậu bé này bằng cách nào, nhưng thật vui mừng vì ông đã gặp cậu bé. Dù Anh-rê không nổi bật trong các sách Phúc-Âm nhưng ông đúng là con của quần chúng, người giúp giải quyết nan đề.
-Giải pháp thứ tư đến từ Chúa chúng ta, và đó là giải pháp hợp lý. Ngài nhận phần thức ăn nhỏ nhoi của cậu bé, chúc phước, bẻ bánh và trao cho các môn-đệ để họ cho đoàn dân ăn! Phép lạ xảy ra từ bàn tay của Đấng Christ, không phải từ các môn-đệ. Ngài hóa bánh ra nhiều, còn các môn-đệ chỉ phân phát cách vui mừng. Không chỉ có đoàn dân được no nê thỏa mãn, nhưng các môn đệ còn nhặt được mười hai giỏ bánh đầy cho bữa ăn sắp tới. Chúa không muốn lãng phí bất cứ điều gì.
Bài học thực tiễn thật rõ ràng: khi gặp nan đề, bạn hãy trao cho Chúa Giê-xu mọi điều bạn có và để Ngài hành động phần còn lại. Hãy bắt đầu từ những gì bạn có, nhưng sẵn sàng trao hết cho Ngài. Cậu bé nhỏ kia thật đáng khen vì đã dâng phần thức ăn của mình cho Chúa Giê-xu. Mẹ của cậu bé cũng đáng cho chúng ta noi gương vì bà cho đứa con mình một cái gì đó để dâng hiến cho Chúa. Đối với Chúa Giê-xu, phần ăn đơn sơ này cũng có giá trị như bình dầu quí giá đã được đổ ra! (Gi 12:3)
Nhưng có phải Chúa Giê-xu thật sự đã làm một phép lạ? Có lẽ lòng rộng rãi của cậu bé khiến những người khác xấu hổ đến nỗi họ phải đem ra phần ăn đã giấu trước đó để chia sớt cho những người xung quanh. Thật vô nghĩa! Chúa biết rõ lòng con người (Gi 2:24; Gi 6:61,64,70) và Ngài tuyên bố rằng họ đang đói. Thật Ngài có thể biết có những phần ăn được giấu kín. Hơn thế, đoàn dân nhận biết đây là một phép lạ nên muốn tôn Ngài làm Vua! (Gi 6:14-16). Nếu đây chỉ là kết quả của tâm lý quần chúng thì đoàn dân đã không phải ứng theo cách đó. Nếu đây không phải là một phép lạ đáng tin, hẳn Giăng chẳng bao giờ chọn sự kiện này vào trong số những dấu lạ.
Thật ý nghĩa khi có hai lần Giăng nhắc đến sự kiện Chúa tạ ơn (Gi 6:11,23). Ma-thi-ơ, Mác, Lu-ca đều thuật rằng Chúa Giê-xu ngước mắt lên trời để tạ ơn. Làm vậy, Ngài nhắc nhở đoàn dân rằng chính Đức Chúa Trời là nguồn ban phát dư dật. Đây cũng là bài học dành cho chúng ta: thay vì phàn nàn về những gì mình thiếu thốn, chúng ta phải cảm tạ Đức Chúa Trời về những gì mình có, thì Ngài sẽ khiến chúng dư dật hơn!
2. Rời khỏi đoàn dân (Gi 6:15-21)
Chúa Giê-xu giục môn đệ lên thuyền (Mat 14:22 Mac 6:45) vì Ngài biết họ có thể gặp rắc rối. Đám đông giờ đây đã bị khích động và muốn tôn Ngài làm Vua. Dĩ nhiên một số môn đệ rất thích cơ hội để được nổi danh và có uy thế hơn! Giu-đa sẽ là “bộ trưởng tài chánh còn Phi-e-rơ có thể được bổ nhiệm làm thủ tướng” trong vương quốc mới này! Nhưng đó không phải là chương trình của Đức Chúa Trời, nên Chúa Giê-xu đã cho đám đông tan đi nhanh chóng, nếu không hẳn nhà cầm quyền Rô-ma sẽ xen vào.
Chúa Giê-xu có biết cơn bão sắp kéo đến chăng? Dĩ nhiên là có. Thế sao Ngài lại để bạn hữu mình gặp nguy hiểm? Sự thật hoàn toàn ngược lại: Ngài đã giải cứu họ khỏi một hiểm hoạ còn lớn hơn thế, đó là nguy cơ bị đám đông cuồng nhiệt “cuốn đi”. Cơn bão này có một nguyên nhân khác: Chúa muốn đời sống chúng ta được quân bình, nếu không chúng ta sẽ trở nên kiêu ngạo và sa ngã. Các môn-đệ đã kinh nghiệm niềm vui lớn lao được dự phần vào một phép lạ ly kỳ. Giờ đây, họ phải đối diện với cơn bão để học cách tin cậy Chúa nhiều hơn. Phép lạ Chúa nuôi 5.000 người là một bài học, nhưng cơn bão là cuộc thử nghiệm sau bài học.
Lắm lúc chúng ta bị đưa vào một “cơn bão” vì không vâng lời Chúa, điển hình là tình trạng của Giô-na. Tuy nhiên cũng có lúc ”bão tố” xảy đến vì chúng ta đã vâng lời Chúa. Khi ấy, chúng có thể tin chắc Đấng Christ sẽ cầu thay cho chúng ta đến giải cứu chúng ta – Có lẽ vài năm sau khi viết sự kiện này, Giăng đã nhìn thấy bức tranh về Đấng Christ và Hội thánh Ngài. Đấng Christ đang ở trên trời cầu thay cho chúng ta, còn chúng ta ở trong cơn bão của cuộc sống, cố gắng bơi vào bờ, Ngày kia, Chúa sẽ ngự đến đưa chúng ta vào bờ bình yên. Mọi cơn bão sẽ qua đi!
Thật ra, chính trong sự kiện này đã có nhiều phép lạ. Chúa đi bộ trên mặt biển, Phi-e-rơ cũng làm được như vậy (Mat 14:28-32) Chúa khiến bão biển lặng yên, thuyền nhanh chóng qua đến bờ bên kia. Dĩ nhiên mọi sự xảy ra giữa ban đêm nên chỉ Chúa Giê-xu và các môn đệ chứng kiến. Ngài dẫn dân Ngài vào đồng cỏ (Gi 6:10) và giờ đây đặt họ nơi “mé nước bình tịnh” (Thi 23:2). Ngài là Người Chăn Chiên tuyệt vời biết bao!
Khi đọc các sách Phúc-Âm, bạn hãy để ý thấy rằng Chúa Giê-xu không bao giờ bị ấn tượng trước “đoàn dân đông”. Ngài biết động cơ của họ không trong sáng và đa số đều theo Ngài cốt chỉ để xem phép lạ chữa bệnh của Ngài. Đối với dân Rô-ma, “thực phẩm và tiêu khiển” là phương châm giúp con người sống “hạnh phúc”. Ngày nay, con người cũng đang thoả mãn với loại thực phẩm ấy. Hãy cho họ được ăn và tiêu khiển họ sẽ hạnh phúc! Hằng năm, Rô-ma đã dành riêng 93 ngày để tổ chức những trò tiêu khiển công cộng làm tốn kém cho ngân khố quốc gia. Khiến dân chúng thích thú hẳn đỡ tốn kém hơn chống lại họ và bắt giam họ!
Chúng ta đừng bao giờ để bị lừa dối bởi “lòng ngưỡng mộ” Chúa Giê-xu của một số người hôm nay. Rất ít người nhận Ngài là Đấng Christ. Nhiều người cần đến Ngài với tư cách Ngài là Đấng chữa bệnh và ban phát, hoặc Đấng giải cứu họ khỏi những nan đề do họ gây ra. “Các ngươi không muốn đến cùng ta để được sự sống!” (Gi 5:40)
3. Dạy dỗ đoàn dân (Gi 6:22-71)
Mục đích phép lạ này của Chúa nhằm dạy dỗ đoàn dân. Bởi ân điển, Ngài nuôi đoàn dân đông. Nhưng bởi chân lý Ngài dạy họ Lời Đức Chúa Trời. Họ chỉ muốn có thức ăn chớ không cần lẽ thật. Cuối cùng, họ đều bỏ Ngài và không muốn đồng hành với Ngài. Ngài rời họ bằng một bài giảng.
Mở đầu cho ngày kế tiếp là một bí ẩn. Chúa Giê-xu đến thành Ca-bê-na-um bằng cách nào? Đoàn dân chứng kiến các môn đệ lên thuyền hướng về Ca-bê-na-um và lạc trong cơn bão. Đoàn dân cũng thấy Chúa Giê-xu đi lên núi một mình. Nhưng qua hôm sau, cả Chúa Giê-xu và các môn đệ đều gặp nhau tại thành Ca-bê-na-um! Chắc chắn Ngài không đi quanh bờ hồ, cũng không chứng cớ nào cho thấy Ngài lên thuyền khác. Có những thuyền khác cập bến, dĩ nhiên do cơn bão làm trôi đến, nhưng Chúa Giê-xu không ở trong thuyền nào.
Có lẽ một số người đã về nhà sau khi được ăn no nê, còn một số khác ở lại để xem việc Chúa sắp làm. Bài giảng của Chúa có thể bắt đầu từ bên ngoài, sau đó cuộc bàn luận xảy ra trong nhà hội (Gi 6:59). Dù dòng người cứ tụ tập bên ngoài để nghe, nhưng đoàn dân đông như thế khó lòng dự nhóm trong nhà hội được.
Bài giảng về “bánh của sự sống” này thật sự là một cuộc hội thoại giữa Chúa Giê-xu và dân sự, đặc biệt là các lãnh đạo tôn giáo Do-thái (“người Giu-đa”). Ở đoạn 6 này, chúng ta thấy có 4 phản ứng của quần chúng đối với Chúa Giê-xu: tìm kiếm (Gi 6:22-40), lằm bằm (Gi 6:41-51), cãi lẽ (Gi 6:52-59) và trở lui (Gi 6:60-71).
• Tìm kiếm (Gi 6:22-40).
Có lẽ các môn-đệ ngạc nhiên vì có nhiều người còn ở lại sau cơn bão để tìm kiếm Thầy họ, nhưng Chúa Giê-xu không để tâm đến điều này. Ngài biết rõ lòng người: đoàn dân đi theo Ngài chỉ vì những phép lạ Ngài đã làm (Gi 6:2), và giờ đây mục đích của họ là được phát “lương thực”.
Thậm chí nếu họ chỉ bị lôi cuốn bởi phép lạ, ít ra họ cũng có cơ may được cứu rỗi. Đó cũng là khởi điểm của Ni-cô-đem (Gi 3:1-2). Nhưng giờ đây, mối quan tâm của họ đã “thoái hóa”, chuyển sang mức độ ham muốn “đồ ăn”. Chúa cho biết có 2 loại đồ ăn: đồ ăn cho thân thể cần thiết nhưng không tối quan trọng) và đồ ăn cho con người bề trong, (nghĩa là tâm linh), thức ăn này không thể thiếu được. Điều cần cho con người không phải là đồ ăn nhưng là sự sống. Sự sống chính là một tặng phẩm. Đồ ăn chỉ để duy trì sự sống, nhưng Chúa Giê-xu ban cho con người sự sống đời đời. Ê-sai đã viết: “Sao các ngươi trả tiền để mua đồ không phải là bánh? Sao các ngươi đem công lao mình đổi lấy vật chẳng làm cho no?” (Es 55:2).
Đoàn dân đã nắm lấy từ “làm việc” và gán cho nó nghĩa sai lầm là làm việc để được cứu rỗi. Họ cũng hiểu sai từ “ban cho”. Mãi “đắm chìm” trong tôn giáo chủ luật họ cho rằng phải làm một việc nào đó mới hưởng được sự sống đời đời. Chúa Giê-xu khẳng định rằng chỉ có một “việc” cần làm đó là tin nơi Đấng Christ. Khi một người tin nơi Đấng Christ, người ấy sẽ không cậy việc thiện để mong được cứu rỗi. Dĩ nhiên trong niềm tin không hề có sự đổi chác, vì đó là điều Đức Chúa Trời thực hiện để đáp lại đức tin của chúng ta (Eph 2:8-10).
Đoàn dân bắt đầu bằng sự tìm kiếm Chúa, nhưng sau đó lại tìm dấu lạ của Ngài. “Người Do-thái đòi phép lạ” (ICôr 1:22). Các thầy dạy luật nói rằng khi Đấng Mê-si-a đến, Ngài sẽ lập lại phép lạ ban ma-na (Xu 16:1-36). Nếu Chúa Giê-xu thật sự là Đấng được Đức Chúa Trời sai đến (Gi 6:29,38,57), vậy hãy để Ngài chứng minh chân lý đó bằng cách khiến ma-na từ trời rơi xuống. Họ muốn thấy mới tin. Nếu đức tin chỉ dựa trên phép lạ mà không dựa trên lẽ thật của Lời Đức Chúa Trời, nó sẽ đưa con người đi lạc lối: cả Sa-tan cũng có thể làm được “việc kỳ dối giả” (IITês 2:8-10). Bạn cũng hãy xem Gi 2:18-25; Gi 4:48.
Câu trích dẫn Gi 6:31 được chép ở Thi 78:24, đó là Thi-thiên nói về sự vô tín và chống nghịch của dân Y-sơ-ra-ên. Để trả lời họ, Chúa Giê-xu giải thích rõ ràng để họ có thể hiểu được chân lý Ngài muốn nói. Không phải Môi-se, nhưng chính Đức Chúa Trời đã ban ma-na xuống. Dân sự không nên nhìn vào Môi-se, nhưng phải chăm xem Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã ban ma-na trong quá khứ, giờ đây Ngài cũng ban bánh thật qua thân vị Chúa Giê-xu. Sự kiện quá khứ đã chấm dứt, nhưng từng trải thuộc linh trong hiện tại đang tiếp diễn!
Đoạn, Chúa Giê-xu liên hệ đến ý nghĩa của bánh này: Ngài chính là bánh hằng sống thật ban xuống từ trời, Ngài đến thế gian không chỉ vì dân Y-sơ-ra-ên, nhưng vì cả thế gian. Ngài đến không chỉ để duy trì sự sống, nhưng để ban sự sống! Trong bài giảng này, có bảy lần Chúa đề cập đến việc Ngài “từ trên trời xuống” (Gi 6:33,38,41,42,50,51,58), lời phán ấy chứng tỏ Ngài là Đức Chúa Trời. Ma-na thời Cựu-ước là hình bóng về “ma-na thật” đó là Chúa Giê-xu.
Cuộc nói chuyện này mở đầu từ chỗ đoàn dân tìm kiếm Chúa, rồi tìm kiếm dấu lạ. Nhưng sau khi nghe Ngài, họ muốn tìm thứ “bánh thật” Chúa nói đến. Tuy nhiên, giống như người đàn bà Sa-ma-ri, họ không sẵn sàng tìm kiếm sự cứu rỗi (Gi 4:15). Người đàn bà này cần có nước hằng sống để không phải đi múc nước ở giếng nữa! Đoàn dân muốn có bánh để không phải làm việc khó nhọc nữa. Ngày nay, con người vẫn cần Chúa Giê-xu chỉ vì “lợi lộc” Ngài có thể ban cho!
Để đáp lại lời cầu xin thiếu suy nghĩ của đoàn dân, Chúa dùng hai từ quan trọng trong bài giảng: “đến” và “tin”. Đến với Chúa đồng nghĩ với tin nơi Ngài, và tin nơi Ngài có nghĩa là đến với Ngài.
• “Tin” không phải là vấn đề của lý trí, như thể đồng tình với học thuyết nào đó. “Tin” có nghĩa là đến với Đấng Christ và đầu phục Ngài. Cuối bài giảng, Chúa minh hoạ việc “đến” và “tin” bằng cách đề cập về sự ăn và uống. Đến với Chúa Giê-xu và tin nhận Ngài nghĩa là tiếp nhận Ngài vào lòng giống như bạn tiếp nhận thức ăn và thức uống vậy.
Gi 6:35 là câu nói đầu tiên của Chúa được Giăng ghi lại với sự khẳng định “TA LÀ”trong số bảy câu nói được dùng trong Phúc-âm Giăng (Gi 8:12; Gi 10:7-9,11-14; Gi 11:25-26; Gi 14:6; Gi 15:1,5). Đức Chúa Trời bày tỏ về Ngài cho Môi-se với danh xưng “TA LÀ ĐẤNG TỰ HỮU HẰNG HỮU” (Xu 3:14). Đức Chúa Trời là Đấng tự hữu “hiện có, đã có, và còn đến...” (Kh 1:8). Khi Chúa Giê-xu phán “TA LÀ...” Ngài muốn tuyên bố mạnh mẽ rằng chính Ngài là Đức Chúa Trời.
Gi 6:37-40 chứa đựng lời giải thích của Chúa Giê-xu về tiến trình cứu rỗi con người. Ngài phán những lời thâm thuý nhất nên chúng ta không mong gì hiểu tường tận tất cả. Ngài giải thích rằng sự cứu rỗi bao hàm quyền phép của Đức Chúa Trời và trách nhiệm của con người. Đức Chúa Trời giao phó loài người cho Con Ngài (Gi 6:37,39; Gi 17:2,6,9,11-12,24), nhưng con người phải “đến” với Ngài, nghĩa là tin nhận Ngài. Ngài bảo đảm rằng ai tin Ngài sẽ không bị hư mất nhưng được sống lại trong ngày sau rốt. Dù sự chết cũng không thể cướp đi sự cứu rỗi của chúng ta! (Nói về “ngày sau rốt”, hãy xem Gi 6:40,44,54. Chúa Giê-xu muốn đề cập đến sự tái lâm của Ngài cùng những sự kiện cuối cùng, là cao điểm của chương trình Đức Chúa Trời dành cho loài người).
Theo quan điểm thiển cận của con người, chúng ta không thể hiểu làm sao quyền phép Đức Chúa Trời và trách nhiệm con người có thể đồng công nhau nhưng đối với Đức Chúa Trời, chẳng có gì mâu thuẫn cả. Khi Charles Spurgeon được một tín hữu trong Hội thánh hỏi rằng làm thế nào ông hoà hợp được hai vấn đề này, ông đáp: “Các bạn ơi tôi chưa hề cố gắng hòa hợp”. Chính bởi ý muốn Đức Chúa Trời khiến tội nhân được cứu (ITi 2:4; IIPhi 3:9) và những ai tin cậy nơi Đấng Christ được bảo đảm trong sự cứu rỗi. Chúa Giê-xu không bao giờ bỏ ra ngoài những người đã chịu tiếp nhận sự sống đời đời của Ngài ban.
• Lằm bằm (Gi 6:41-51).
Lời Chúa phán “vì ta từ trên trời xuống” (Gi 6:38) khiến các lãnh đạo tôn giáo cảm thấy khó chịu vì họ biết đó là lời tuyên bố về thần tính Đức Chúa Trời. Họ nghĩ mình biết Chúa, Ngài là ai, xuất thân từ đâu (Mat 13:53-58; Gi 7:40-43). Dĩ nhiên, theo luật pháp Chúa Giê-xu là con Giô-sép nhưng không phải là người con bình thường, bởi Ngài được sinh bởi một nữ đồng trinh (Lu 1:34-38). Các nhà lãnh đạo xem Chúa là người ở thành Na-xa-rét xứ Ga-li-lê, không phải ở Bết-lê-hem thuộc xứ Giu-đê, họ cho rằng Giô-sép là cha đẻ của Ngài. Nếu họ xem xét lại vấn đề này, hẳn sẽ biết Ngài thật sự là ai.
Thậm chí trong thời Môi-se, dân Do-thái đã “nổi tiếng” về tính hay lằm bằm (Xu 15:24; Xu 17:3; Dan 14:2). Có lẽ các nhà lãnh đạo và vài người dân đã vào nhà hội để tiếp tục cuộc tranh cãi. Vấn đề chính của họ là “Ngài từ đâu đến?” Năm lần, Chúa Giê-xu phán rằng Ngài “từ trên trời xuống”, nhưng họ đều không tin.
Chúa Giê-xu giải thích thêm về phương cách tội nhân đến với Đức Chúa Trời: Bởi chân lý của Lời Đức Chúa Trời (Gi 6:44-45). Đức Chúa Trời cứu tội nhân bằng Lời Ngài. Chúa Giê-xu đã trích dẫn Es 54:13 (hoặc Gie 31:33-34) để minh chứng cho điều Ngài muốn nói: “Ai nấy đều sẽ được Đức Chúa Trời dạy dỗ. Bởi sự dạy dỗ ấy, Đức Chúa Trời đưa dân sự đến với Đấng Christ” (Gi 5:24). Khi Đức Chúa Trời hành động, tội nhân nghe, tin và đến. Một mầu nhiệm chăng? Đúng vậy. Một lẽ thật phước hạnh chăng? Đúng vậy.
Về cơ bản, đây cũng là cùng một sứ điệp Ngài đã công bố sau khi chữa lành người bại (Gi 5:37-40). Đoàn dân muốn xem một điều gì đó, nhưng nhu cầu thật của họ là “phải biết điều gì đó”. Qua Lời Chúa, chúng ta có thể nhìn xem Đức Chúa Trời, đến với Đấng Christ bằng đức tin và tin cậy Ngài (Rô 10:17).
Khi Chúa Giê-xu xưng Ngài là “Bánh của Sự sống”, Ngài không muốn nói rằng Ngài giống như ma-na. Ngài tuyên bố rằng Ngài còn vĩ đại hơn thế. Ma-na chỉ duy trì cuộc sống của dân Do-thái, nhưng Chúa Giê-xu ban sự sống cho cả thế giới. Dân Do-thái ăn ma-na mỗi ngày rồi cũng chết, nhưng khi bạn tiếp nhận Chúa Giê-xu vào lòng, bạn sẽ sống đời đời. Ma-na chỉ là tặng phẩm của Đức Chúa Trời ban xuống, nhưng khi Chúa Giê-xu đến, Ngài đã ban chính mình Ngài.
Đức Chúa Trời chẳng “tốn kém” khi ban ma-na từ trời xuống, nhưng khi ban Con Ngài, Ngài đã trả một giá đắt nhất. Dân Do-thái phải ăn ma-na mỗi ngày, nhưng tội nhân tin nhận Đấng Christ chỉ một lần đều được ban sự sống đời đời.
Thật không khó nhìn thấy hình ảnh của Chúa Giê-xu qua ma-na! Ma-na là điều bí ẩn đối với dân Do-thái, thật ra từ “ma-na” có nghĩa “cái chi vậy?” (Xu 16:15). Chúa Giê-xu là một sự mầu nhiệm cho những ai gặp Ngài. Ma-na từ trời rơi xuống vào ban đêm, và Chúa Giê-xu đến thế gian này khi mọi tội nhân đang trong bóng tối của thuộc linh và đạo đức. Ma-na có dạng nhỏ (sự khiêm nhường của Ngài), tròn (sự vĩnh hằng của Ngài) và trắng (sự thánh khiết của Ngài). Thực phẩm này nếm có vị ngọt (Thi 34:8), đáp ứng nhu cầu của con người một cách thỏa đáng.
Ma-na được ban xuống cho một dân chống nghịch, là tặng phẩm nhân từ của Đức Chúa Trời. Nhiệm vụ của họ chỉ là cúi xuống và nhặt lên. Nếu không nhặt ma-na lên, họ sẽ giẫm trên nó. Chúa không ở xa bất cứ tội nhân nào. Tội nhân chỉ cần khiêm cung nhận tặng phẩm của Đức Chúa Trời!
Cuối sứ điệp, Chúa nói đến “thịt” Ngài. Từ “thịt” được Chúa sử dụng sáu lần nữa trước khi kết thúc bài giảng. Gi 6:51 là lời tuyên bố rằng Con Đức Chúa Trời sẽ dâng chính Ngài làm của lễ “vì sự sống của thế gian”. Sự chết thay của Chúa Giê-xu là một chân lý trọng tâm trong Phúc-âm Giăng. Ngài chết vì thế gian (Gi 3:16; Gi 6:51), vì bầy chiên Ngài (Gi 10:11,15), vì dân Ngài (Gi 11:50-52) và vì bạn hữu Ngài (Gi 15:12). Phao-lô áp dụng sự chết thay ấy cho bản thân mình, chúng ta cũng cần làm vậy: “Đấng đã yêu tôi và đã phó chính mình Ngài vì tôi” (Ga 2:20).
Chúng ta không nên giới hạn công việc của Đấng Christ trên thập tự giá. Ngài hy sinh không chỉ vì tội chúng ta, nhưng cũng vì tội lỗi toàn thế giới (IGi 2:2).
• Cãi lẽ (Gi 6:52-59).
Từ này có nghĩa như “nghịch và tranh cãi nhau”. Những kẻ nghe bài giảng của Chúa là người Do-thái chính thống, họ biết rõ về luật Đức Chúa Trời cấm ăn thịt người hay uống bất cứ huyết gì (Sa 9:3-4; Le 17:10-16; Le 19:26). Qua Phúc-âm Giăng, chúng ta biết thêm một điển hình nữa về việc dân sự hiểu sai một lẽ thật thuộc linh khi giải thích theo nghĩa đen (Gi 2:19-21; Gi 3:4; Gi 4:11). Chúa Giê-xu muốn phán rằng: “Khi các ngươi ăn và uống vật thực này, nó sẽ trở thành của ngươi. Vì vậy, các ngươi phải tiếp nhận ta vào con người bên trong của mình hầu ta có thể ban cho các ngươi sự sống”.
Một số nhà giải kinh cho biết Chúa Giê-xu muốn nói về Tiệc Thánh, nghĩa là chúng ta ăn thịt uống huyết Ngài khi dự phần ăn bánh uống chén. Tôi không cho rằng Chúa nhắc đến Tiệc Thánh khi Ngài phán những lời này.
-Lý do thứ nhất, vì sao Ngài phải bàn luận về Tiệc Thánh với đám người vô tín bất đồng kia? Thậm chí, Ngài vẫn chưa chia sẻ lẽ thật đó với các môn đệ! Sao Ngài phải quăng viên ngọc quý giá trước mặt heo?
-Lý do thứ hai, Ngài nói rõ rằng Ngài không nói theo nghĩa đen của thuật ngữ loài người (Gi 6:63). Ngài sử dụng cách dùng từ tương đương của con người để rao một lẽ thật thuộc linh giống như Ngài từng dạy Ni-cô-đem và người đàn bà Sa-ma-ri vậy.
-Lý do thứ ba, Chúa Giê-xu chỉ giải thích đơn giản rằng việc ăn và uống là điều tối cần thiết cho sự sống đời đời. Ngài không đưa ra một ngoại lệ nào khác. Nếu Ngài muốn nói đến những lễ nghi, các thánh lễ trong giáo hội thì chắc những ai chưa biết đến sẽ chết về tâm linh và đi vào địa ngục! Trong số những người này chắc cũng có mọi thánh đồ thời Cựu-ước, tên cướp trên thập tự giá, và cả đám đông tin Chúa trong hoàn cảnh cấp bách (bệnh viện, cơ hội tình cờ đến, dưới hầm trú, ...)! Bản thân tôi không thể tin rằng Đức Chúa Trời nhân từ của chúng ta lại không cứu những người không có cơ hội dự lễ thờ phượng ở nhà thờ!
Một yếu tố khác, đó là thì của động từ ở Gi 6:50,51,53. Đây là thì bất định (ngữ pháp Hy-lạp) với ý nghĩa “một lần đủ cả”. Còn Tiệc Thánh là hình thức được lặp đi lặp lại, giống như Hội thánh đầu tiên dự tiệc thánh mỗi ngày (Công 2:46).
Thật ý nghĩa khi từ “thịt” chưa bao giờ được dùng trong những đoạn tường thuật lại Tiệc Thánh của Chúa, cũng không dùng trong các sách Phúc-Âm hay trong ICôr 11:23-34. Từ được dùng lại là “thân thể”. Nếu ai đó cho rằng Chúa muốn nói về Tiệc Thánh vậy người ấy phải tin rằng bằng cách nào đó bánh và rượu nho biến thành chính thân thể và huyết của Đấng Christ, vì Ngài từng phán: “Người nào ăn bánh ta, sẽ sống bởi ta vậy” (Gi 6:57). “Phép lạ” này xảy đến ra sao? Đâu là sự mầu nhiệm để thực hiện được? Tại sao nó không rõ ràng?
Những bài giảng của Chúa trong Phúc-âm Giăng chứa đựng rất nhiều biểu tượng và hình ảnh. Nếu giải thích lời Ngài theo nghĩa đen, vậy chúng ta cũng sẽ phạm sai lầm giống như đoàn dân khi họ nghe lời Chúa lần đầu.
• Trở lui (Gi 6:60-71).
Lời Chúa dạy không có gì khó hiểu, nhưng một khi bạn đã hiểu, bạn cảm thấy khó chấp nhận. Các nhà lãnh đạo Do-thái không hiểu Lời Ngài, lại còn chống đối nữa. Lời dạy của Ngài làm cho họ bị xúc động. Họ vấp phạm trước sự kiện Chúa nói Ngài từ trời xuống. Họ cũng vấp phạm trước ý tưởng cho rằng họ phải ăn thịt, uống huyết Ngài để có được sự cứu rỗi. Nhưng nếu họ vấp phạm trước hai vấn đề này thì họ sẽ làm gì khi thấy Ngài trở về trời?
Chúa giải thích rằng ngôn ngữ Ngài sử dụng mang tính chất thuộc linh và có nghĩa bóng chớ không theo nghĩa đen. Không hề có sự cứu rỗi trong “thịt”. Thật ra, trong Tân-ước không nói điều gì tốt về thịt. Không có điều lành ở trong xác thịt (Rô 7:18) nên chúng ta đừng tin cậy nơi xác thịt (Phi 3:3).
Vậy, làm thế nào chúng ta có thể “ăn thịt và uống huyết Chúa”? Đó là qua Lời Ngài? “Những lời ta phán cùng các ngươi đều là thần linh và sự sống” (Gi 6:63). “Ngôi lời đã trở nên xác thịt” (Gi 1:14). Chúa cũng phán lời tương tự. “Ai nghe lời ta mà tin Đấng đã sai ta, thì được sự sống đời đời” (Gi 5:24). Đã học qua Gie 31:31-34, lẽ ra các thầy thông giáo phải hiểu ý niệm về việc tiếp nhận lời Chúa vào lòng mình!
Sau khi Chúa giảng ra sứ điệp này, đa số môn-đệ Chúa đều trở lui. Họ trở lại với lối sống cũ, lễ nghi cũ và tâm trạng vô vọng trước đây. Chúa Giê-xu là “đường đi” (Gi 14:6) nhưng họ không muốn đồng hành với Ngài. Không có gì đáng ngạc nhiên đối với Chúa, vì Ngài biết rõ lòng người.
Khi Chúa hỏi 12 sứ-đồ rằng họ có muốn bỏ Ngài mà đi chăng, Phi-e-rơ lên tiếng khẳng định niềm tin mình. Họ còn biết đi đâu? “Chúa có những lời của sự sống đời đời” (Gi 6:68). Phi-e-rơ hiểu được sứ điệp của Chúa! Ông biết Chúa Giê-xu muốn nói đến Lời Ngài chớ không phải “thịt và huyết” theo nghĩa đen.
Phi-e-rơ là một trong số nhiều người tuyên xưng đức tin, nhìn biết Chúa Giê-xu là Con Đức Chúa Trời (Gi 1:34,49; Gi 3:18; Gi 5:25; Gi 9:35; Gi 10:36; Gi 11:4,27; Gi 19:7; Gi 20:31). Sai lầm duy nhất của ông chỉ là làm chứng thay cho cả nhóm. Phi-e-rơ tin chắc rằng các sứ đồ đều là người tin theo Chúa, thậm chí không biết Giu-đa là kẻ vô tín.
Sự giảng dạy về Lời Đức Chúa Trời luôn luôn là một cuộc sàng lọc tấm lòng của kẻ nghe. Đức Chúa Trời đem tội nhân đến Đấng Christ bằng quyền phép của chân lý, là Lời Ngài. Những ai khước từ Lời Chúa, cũng đồng nghĩa với khước từ Đấng Christ. Ai tiếp nhận lời Ngài sẽ tiếp nhận Đấng Christ và kinh nghiệm sự tái sinh, sự sống đời đời.
Bạn có cảm thấy nhu cầu vì sự đói khát tâm linh bên trong không? Bạn có sẵn sàng thừa nhận nhu cầu ấy và đến với Đấng Christ?
Nếu có, Ngài sẽ cứu bạn và khiến bạn được thoả mãn mãi mãi!
7. SỰ CHỐNG ĐỐI TRONG KỲ LỄ (Gi 7:1-53)
Lễ Lều tạm kỷ niệm cuộc hành trình của dân Y-sơ-ra-ên trong đồng vắng đồng thời cũng hướng về vương quốc của Đấng Mê-si-a. Dân sự sẽ ở trong trại làm bằng nhánh cây để nhớ lại sự chăm sóc bảo vệ của Đức Chúa Trời đối với họ trong gần 40 năm (Le 23:33-34).
Tiếp nối Lễ Thổi Kèn và Lễ Chuộc Tội trang trọng là Lễ Lều Tạm. Đây là mùa lễ hội của dân Do-thái. Khu vực đền thờ rực sáng với những cây nến lớn nhắc nhở dân sự về “trụ lửa” dẫn đường. Mỗi ngày các thầy tế lễ sẽ đem nước từ ao Si-lô-ê đến rót vào một ché vàng, để dân sự nhớ về sự ban nước kỳ diệu từ vầng đá.
Kỳ lễ này có thể là thời điểm hoan hỉ của dân sự, nhưng cũng là thời gian gây trở ngại cho Chúa Giê-xu, vì nó khởi đầu cuộc chống đối công khai mạnh mẽ nhằm vào Chúa và chức vụ Ngài. Kể từ khi người bại được chữa lành trong ngày Sa-bát, các nhà lãnh đạo Giu-đa luôn tìm kế giết Ngài (Gi 7:1,19-20,25,30,32,44 để ý Gi 8:37,40). Ngài ở lại xứ Ga-li-lê, là nơi an toàn cho Ngài hơn, nhưng Ngài không thể cứ ở mãi nơi đây vì Ngài cũng phải dự kỳ lễ này.
Đoạn 7 được chia làm 3 thời điểm trước kỳ lễ (Gi 7:1-10), trong kỳ lễ (Gi 7:11-36) và cuối kỳ lễ (Gi 7:37-52). Diễn tiến của mỗi thời điểm có thể được bày tỏ bằng 3 từ: vô tín, tranh luận và bất đồng.
1. Trước kỳ lễ: Sự vô tín (Gi 7:1-10)
Bà Ma-ri đã sinh ra những đứa con kế tiếp và Giô-sép cha ruột của họ. Như vậy, Chúa Giê-xu là anh cùng mẹ khác cha của họ (Mat 13:55-56; Mac 6:1-6). Không ngờ rằng các em Chúa Giê-xu đã sống chung với Ngài những năm tháng qua nhưng không nhận ra sự khác thường của bản thể Ngài. Hẳn họ đã biết những phép lạ của Ngài cũng như bao người khác (Gi 7:3-4). Có mối liên hệ mật thiết nhất với Chúa, có cơ hội thuận tiện nhất để dò xét và thử Ngài, vậy mà họ vẫn vô tín!
Giờ đây, anh em Chúa lên đường dự một kỳ lễ tôn giáo nhưng lại chối bỏ Đấng Mê-si-a của mình! Con người thật dễ dàng tuân thủ theo hình thức mà đánh mất lẽ thật vĩnh cửu. Trong khi những người thu thuế và kẻ có tội vui mừng nghe lời Chúa, các anh em Chúa cười nhạo Ngài. Quan điểm của họ giống người thế gian: “Nếu anh muốn có người ủng hộ mình, hãy tận dụng mọi cơ hội để làm cái gì đó “giật” gân xem nào”! Giê-ru-sa-lem đầy ắp kẻ hành hương từ bốn phương đến, đúng là một “bục giảng” lý tưởng để Chúa bày tỏ chính Ngài và thu phục môn-đệ. Các anh em Chúa dĩ nhiên biết rằng có nhiều môn-đệ đã bỏ Ngài (Gi 6:66). Đây là cơ hội để Chúa bù đắp lại những “mất mát” của Ngài. Trước đó 3 năm, Sa-tan cũng đã “gợi ý” với Chúa giống như vậy (Mat 4:1).
Chúa Giê-xu từng từ chối lời đề nghị của dân chúng muốn tôn Ngài làm Vua (Gi 6:15) nên Ngài sẽ không theo ý họ ở bất cứ hình thức nào. Những kẻ nổi danh có thể đã thành công bởi sự tán dương của dân chúng, nhưng tôi tớ Đức Chúa Trời khôn ngoan hơn thế. Nếu thực hiện phép lạ suốt kỳ lễ tại thành phố lớn này, Chúa hẳn có thể tập hợp được đám đông, bày tỏ chính Ngài là Đấng Mê-si-a và thắng được kẻ thù.
Dĩ nhiên suy nghĩ này chỉ xuất phát từ những tấm lòng và tâm trí mù quáng của kẻ vô tín. Những kẻ vô tín ấy đã làm ứng nghiệm lời tiên tri trong sách Thi 69:18 “Tôi đã trở nên một kẻ lạ cho anh em tôi, một người ngoại bang cho các con trai mẹ tôi” (vì Chúa không phải là con ruột Giô-sép, nên Ngài không thể nói “các con trai của Cha tôi”).
Đây chưa phải là thời điểm thích hợp để Chúa chứng minh về Ngài cho thế gian (Gi 14:22). Sẽ có một ngày, Ngài trở lại để “mọi mắt sẽ trông thấy” (Kh 1:7). Chúng ta thấy rằng Ngài đã sống theo một “thời gian biểu thiêng liêng” do Cha trên trời định trước (Gi 2:4; Gi 7:6,8,30; Gi 8:20; Gi 12:23; Gi 13:1; Gi 17:1).
Chúa luôn thận trọng vì biết rằng các chức sắc tôn giáo muốn giết Ngài. Dù họ là những lãnh đạo trong giáo hội, họ vẫn thuộc về “thế gian”, những kẻ luôn thù ghét Ngài vì tội lỗi họ bị Ngài vạch trần. Qua phẩm cách và chức vụ Chúa Giê-xu, Ngài bày tỏ sự hời hợt, rỗng tuếch của hình thức tôn giáo vô nghĩa.Ngài kêu gọi dân sự trở lại lẽ thật của Đức Chúa Trời. Lịch sử cho thấy giáo hội thường bắt bớ các tiên tri của Đức Chúa Trời là những người được sai đến để cứu họ.
Một số bản dịch Kinh Thánh không có chữ “chưa” ở Gi 7:8 nhưng sự vắng mặt của nó vẫn không làm thay đổi sức mạnh của lời tuyên bố ấy. Chúa hẳn không nói dối, cũng không lẩn tránh nhưng Ngài hết sức thận trọng. Nếu Ngài cho anh em mình biết kế hoạch của Ngài, liệu tin ấy có lan đến tai các nhà lãnh đạo chăng? “Ta sẽ đến dự lễ khi giờ ta được trọn”, đó là ý nghĩa Ngài muốn nói. Sau khi anh em Chúa đi dự lễ, Ngài đến Giê-ru-sa-lem “cách kín giấu” để tránh gây sự chú ý.
Qua những hành động của Chúa, chúng ta thấy một hình ảnh minh họa tuyệt vời về quyền tể trị của Đức Chúa Trời và trách nhiệm của loài người. Đức Chúa Trời có chương trình dành cho Con Ngài, nên không điều gì có thể phá vỡ chương trình ấy được. Chúa Giê-xu không thử Đức Chúa Trời bằng cách lao vào kỳ lễ, cũng không trì hoãn khi giờ đã trọn cho Ngài dự lễ. Để biết thời điểm theo ý muốn Đức Chúa Trời, cần phải có sự sáng suốt về thuộc linh.
2. Trong kỳ lễ: Cuộc tranh luận (Gi 7:11-36)
Bạn sẽ thấy cuộc tranh luận có liên quan đến ba nhóm người.
-Nhóm thứ Gi 1: dĩ nhiên là các nhà lãnh đạo Do-thái (“người Giu-đa”) sống ở Giê-ru-sa-lem, có nhiệm vụ trong đền thờ. Ngoài họ còn có người Pha-ri-si và các thầy tế lễ cả (đa số là người Sa-đu-sê) cũng như các thầy thông giáo. Những người này có sự bất đồng về thần học, nhưng có chung một điểm: cùng chống nghịch Chúa Giê-xu và muốn giết Ngài. Cũng có những ngoại lệ như Ni-cô-đem và Giô-sép người A-ri-ma-thê (Gi 19:38-42).
-Nhóm thứ Gi 2: “dân chúng” (Gi 7:12,20,31-32). Đây là số người dự lễ, đến Giê-ru-sa-lem để thờ phượng. Nhiều người không để tâm đến thái độ của các nhà lãnh đạo tại Giê-ru-sa-lem. Bạn thấy (Gi 7:20 cho biết dân chúng ngạc nhiên vì chẳng ai muốn giết Chúa Giê-xu cả! Họ không hề hay biết tin đồn trong thành nên khó khăn lắm mới hiểu rằng Chúa Giê-xu bị các chức sắc xem là người phạm luật.
-Nhóm thứ Gi 3: dân Do-thái cư trú trong thành Giê-ru-sa-lem (Gi 7:25). Dĩ nhiên họ có vẻ đứng về phía các chức sắc tôn giáo này.
Cuộc tranh luận đã bắt đầu từ trước khi Chúa đến Giê-ru-sa-lem, đặc biệt nhằm vào phẩm cách Ngài (Gi 7:11-13). Các lãnh đạo tôn giáo vẫn tìm Chúa, còn đám đông cứ tranh cãi về việc Ngài là người nhân lành hay kẻ lừa dối. Ngài phải là một nhân vật nào đó, vì một người thật sự tốt lành sẽ không lừa dối ai. Đúng vậy, Chúa Giê-xu chính là Đấng Ngài đã từng tuyên bố, nếu không Ngài là kẻ nói dối.
Khi Chúa bắt đầu dạy dỗ công khai trong đền thờ, cuộc tranh cãi chuyển hướng sang đạo lý của Ngài (Gi 7:14-19). Đương nhiên, phẩm cách và đạo lý phải đi đôi với nhau. Thật dại dột nếu tin nơi những lời dạy dỗ của một kẻ nói dối! Người Do-thái kinh ngạc về lời dạy dỗ của Chúa vì Ngài không học trường lớp nào dành cho các Ra-bi-của họ. Vì Ngài không được “công nhận”, nên kẻ thù cho rằng lời dạy dỗ của Ngài chỉ là ý riêng và không giá trị gì. Người ta thường đồn rằng Chúa Giê-xu dạy dỗ có quyền, trong khi đó thầy thông giáo và người Pha-ri-si chỉ dựa trên thẩm quyền của các Ra-bi danh tiếng.
Chúa Giê-xu giải thích rằng Đạo lý Ngài từ Đức Chúa Trời đến. Ngài từng khẳng định mình và Cha trên trời bình đẳng trong việc làm và sự xét đoán (Gi 5:17,30). Giờ đây, Ngài tuyên bố rằng sự dạy dỗ của Ngài cũng từ Cha mà đến và Ngài sẽ còn tuyên bố lời kỳ diệu ấy lần nữa (Gi 8:26,38). Khi giảng lời Đức Chúa Trời, tôi có thể tuyên bố thẩm quyền của Kinh Thánh chớ không phải của lời giải nghĩa Kinh Thánh do tôi nói. Thật hợp lẽ khi Chúa có thể tuyên bố quyền tối cao trong mọi lời Ngài dạy dỗ!
Như vậy mọi giáo sư khác không thể tuyên bố một lời tương tự như Chúa sao? Làm thế nào chúng ta biết Ngài đang dạy chúng ta lẽ thật? Chỉ bởi làm theo điều Ngài bảo chúng ta! Lời Đức Chúa Trời tự chứng minh sự chân thật cho những ai thành tâm vâng theo. Nhà truyền giáo Anh quốc F. W. Robertson nói rằng “sự vâng lời là một phần của tri thức thuộc linh”.
Gi 7:17 chép: “Nếu ai khứng làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời, thì sẽ biết đạo lý ta có phải là bởi Đức Chúa Trời, hay là ta nói theo ý ta”. Đây cũng là lời giải thích lý do các quan trưởng Giu-đa không hiểu lời Chúa: bởi họ có cái đầu “bướng bỉnh” không muốn đầu phục Ngài (Gi 5:40).
Có phải Chúa gợi ý ở đây một “cuộc thử nghiệm thực dụng” đối với chân lý thiêng liêng? Phải chăng Ngài muốn nói: “Hãy thử đi! Nếu hiệu nghiệm, đó phải là lẽ thật! Và như vậy nếu kết quả không hiệu nghiệm Lời Chúa là giả dối ư?” Kiểu thử nghiệm này chắc sẽ dẫn đến một mơ hồ, vì bất cứ kẻ mộ đạo nào cũng có thể nói: “Tôi đã thử những điều giáo hội dạy và nó hiệu nghiệm!”
Không, Lời phán của Chúa chúng ta sâu sắc hơn thế. Ngài không đưa ra một “thử nghiệm” hời hợt nhưng là sự phó thác riêng tư và sâu sắc của con người đối với lẽ thật. Dân Giu-đa cậy nơi học thức và quyền thế nên tiếp nhận đạo lý của họ cách gián tiếp, còn Chúa Giê-xu khẳng định rằng chúng ta kinh nghiệm quyền của chân lý một cách trực tiếp.
Các nhà lãnh đạo Giu-đa muốn giết Chúa, nhưng đồng thời cũng tự cho mình hiểu lẽ thật Đức Chúa Trời và vâng theo! Điều đó cho thấy một cái đầu minh mẫn và có tri thức chưa hẳn có một tấm lòng thánh khiết hay một tư tưởng thánh thiện. Có những tội phạm nguy hiểm nhất thế giới cũng là những người có học thức cao và rất thông minh.
Sa-tan cho A-đam và Ê-va sự khôn ngoan, nhưng đó là sự khôn ngoan dựa trên sự bất tuân (Sa 3:5). Chúa Giê-xu cho chúng ta tri thức để biết vâng lời: trước tiên là mang lấy trách nhiệm và sau đó vui mừng khi biết lẽ thật Đức Chúa Trời. Tấn sĩ G. Campbell Morgan đã nói một câu hữu lý: “Khi con người đầu phục hoàn toàn và trọn vẹn theo ý muốn Đức Chúa Trời, sẽ nhận biết rằng sự dạy dỗ của Đấng Christ là linh nghiệm, đó là sự dạy dỗ của Đức Chúa Trời”.
Nếu thật sự tìm kiếm ý muốn Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ chẳng quan tâm đến việc “vinh quang” thuộc về ai. Mọi lẽ thật đều từ Đức Chúa Trời nên chỉ có Ngài là Đấng đáng được vinh hiển về điều Ngài dạy dỗ chúng ta. Không một giáo sư hay nhà truyền đạo nào đáng được người ta ngợi khen về những điều chỉ đến từ Đức Chúa Trời. Nếu người ấy được “vinh quang”, chứng tỏ lời dạy của người ấy được nói theo ý riêng chớ không từ Đức Chúa Trời. Đây là nguyên nhân xảy ra nhiều cách thờ phượng riêng và tình trạng chia rẽ trong Hội thánh: ai đó “phát minh” ra một học thuyết, thuyết phục người ta tin theo và sử dụng nó để chia rẽ con dân Chúa!
Cuộc tranh cãi đầu tiên giới hạn trong vòng người Giu-đa, nhưng sau đó khách thập phương đến thành Giê-ru-sa-lem cũng dự vào (Sa 7:20). Chúa Giê-xu đã dạn dĩ cho biết các nhà lãnh đạo muốn giết Ngài vì Ngài phạm luật Sa-bát và xưng mình ngang hàng Đức Chúa Trời (Gi 5:10-18). Dân Do-thái chính thống đã phạm luật Sa-bát khi để con trai mình làm phép cắt bì trong ngày ấy, vậy sao Ngài lại không thể chữa bệnh cho kẻ khác trong ngày sa-bát? “Cớ sao các ngươi kiếm thế giết ta?”
Dĩ nhiên khách dự lễ không biết mưu giết Chúa Giê-xu của các nhà lãnh đạo nên nghi ngờ lời phán của Ngài. Phản ứng của họ chứa đựng một lời tố cáo nặng nề rằng Ngài bị quỉ ám. Đây không phải là lời tố cáo mới vì các nhà lãnh đạo từng vu cáo cho Chúa từ trước (Mat 9:34; Mat 10:25; Mat 11:18-19; Mat 12:24). “Ngươi bị quỷ ám, nào ai là người tìm thế giết ngươi?”
Chúa dùng chính luật pháp Môi-se để bẻ bác lý lẽ kẻ thù, nhưng biết rằng họ không thừa nhận. Vì sao? Vì mức độ xét đoán của họ không thành thật. Họ đánh giá mọi việc chỉ dựa vào bề ngoài, trên cơ sở mơ hồ, thiếu tính xác thực. Đáng buồn thay khi hôm nay có quá nhiều người phạm sai lầm tương tự như vậy. Gi 7:24 là lời Chúa kêu gọi chúng ta hãy thật lòng đến với lẽ thật.
Dân cư trú tại Giê-ru-sa-lem cũng tham gia bàn luận (Gi 7:25). Họ biết các nhà cầm quyền muốn giết Chúa Giê-xu nên rất ngạc nhiên vì Ngài giảng dạy công khai mà không ai làm chi đụng đến Ngài. Có lẽ các nhà cầm quyền tin Ngài thật là Đấng Mê-si-a được Đức Chúa Trời sai đến. Vậy vì sao họ không thờ phượng Ngài cũng như dẫn dắt kẻ khác đến với Ngài?
Câu hỏi của dân sự (Gi 7:25) thể hiện một giải đáp tiêu cực: “Có phải các nhà cầm quyền không tin người ấy là Đấng Christ?” Họ đi đến một kết luận có vẻ lô-gic:
a. Không ai biết Đấng Christ từ đâu đến.
b. Chúng ta biết Giê-xu Na-xa-rét từ đâu đến.
c. Kết luận: Giê-xu không thể là Đấng Mê-si-a.
Một lần nữa, dân chúng không thể hiểu chân lý vì họ bị che mắt bởi những sự việc họ cho rằng “đáng tin cậy”. Chúa đã trải qua sự chống đối tương tự trong nhà hội ở Ca-bê-na-um (Gi 6:42). Cả những giáo sư hiểu biết “chuyên gia xây dựng” cũng không nhận biết “Hòn đá góc nhà” dù đã nghiên cứu “Bản thiết kế” của Đức Chúa Trời hằng bao thế kỷ qua! (Công 4:11)
Lúc này, Chúa cất tiếng lên cho mọi người đều nghe (Công 7:37). Có lẽ Ngài nói bằng một giọng bày tỏ sự tiếc nuối: “Các ngươi nghĩ mình đã biết ta và nơi xuất thân của ta, nhưng thật sự các ngươi không hề biết gì!”
Ngài giải thích lý do họ không biết Ngài: vì không biết Cha! Đây là một lời lên án mạnh mẽ đối với dân Do-thái chính thống vì họ luôn tự hào mình biết rõ Đức Chúa Trời chân thật, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.
Chúa muốn dẫn chứng xa hơn: Ngài mạnh mẽ xác quyết rằng Ngài không chỉ biết Cha nhưng còn được Cha sai đến. Một lần nữa, Ngài tuyên bố mình là một với Đức Chúa Trời! Ngài không đơn giản được sinh ra trên đất như bao người bình thường khác, nhưng Ngài được Cha sai đến trần gian. Điều này có nghĩa là Ngài đã thực hữu từ trước khi giáng sinh trên đất.
Đây đúng là một cao điểm trong chức vụ Ngài, vì vậy một vài nhà lãnh đạo muốn cho người bắt Ngài, nhưng “giờ Ngài chưa đến”. Nhiều người từ xa đến tin theo Ngài. Niềm tin này dựa trên những phép lạ, nhưng ít ra cũng là một khởi điểm trước hết (Gi 2:23; Gi 6:2,26). Lúc đầu Ni-cô-đem quan tâm đến Chúa Giê-xu vì những phép lạ Ngài làm (Gi 3:1-2) nhưng kết quả là ông đã công khai xưng nhận đức tin mình nơi Đấng Christ.
Người Pha-ri-si và các thầy tế lễ cả là những người đứng đầu Do-thái giáo, rất bực tức vì những người tin nơi Chúa Giê-xu. Lúc này, các nhà lãnh đạo sai người đi bắt Chúa, nhưng Chúa Giê-xu mới là người “bắt” họ! Ngài khuyên họ phải nghe lẽ thật, tin để được cứu (Gi 12:35). Người gặp “nguy hiểm” không phải là Chúa Giê-xu, nhưng chính là những ai muốn bắt Ngài!
Như những bài giảng trước, dân chúng không hiểu điều Chúa phán. Trong vòng 6 tháng nữa, Ngài sẽ trở về với Cha trên trời. Khi ấy người Do-thái không tin Chúa sẽ không thể theo Ngài. Thật là một khác biệt giữa câu “nơi ta ở, các ngươi không thể đến được” (Gi 7:34) với câu “hầu cho ta ở đâu thì các ngươi cũng ở đó!” (Gi 14:3)
Nếu những kẻ này sẵn lòng vâng theo ý muốn Đức Chúa Trời, họ sẽ biết chân lý. Chẳng bao lâu nữa mọi sự sẽ trở nên “đã quá muộn! ”
3. Cuối kỳ lễ: Sự bất đồng (Gi 7:37-52)
Ngày cuối cùng của kỳ lễ là ngày thứ 7, một ngày rất đặc biệt để các thầy tế lễ đi quanh bàn thờ 7 lần, hát câu Thi 118:25. Đây là lần cuối cùng họ đổ nước ra. Hẳn khi họ đổ nước làm dấu hiệu về nước Môi-se đã lấy từ vầng đá, cũng là lúc Chúa cất tiếng mời gọi những tội nhân khao khát nguồn nước sống đến với Ngài.
Người ta định rằng “ngày trọng thể” này là ngày 21/7, vì vào ngày này, tiên tri A-ghê đã nói lời tiên tri đặc biệt về đền thờ (Ag 2:1-9). Sự ứng nghiệm sau cùng phải chờ đến khi Đấng Christ tái lâm trên đất, nhưng khi Chúa Giê-xu đến đền thờ, cũng làm ứng nghiệm một phần lời tiên tri ấy. Ag 2:6-7 được trích dẫn trong He 12:26-29 để nói đến sự tái lâm của Chúa.
Chúa Giê-xu nhắc đến từng trải của dân Y-sơ-ra-ên chép trong Xu 17:1-7. Nước đó chỉ là hình ảnh về Thánh Linh Đức Chúa Trời. Người tin Chúa không chỉ uống được nước hằng sống, nhưng còn trở nên những mạch nước chia sẻ cho một thế giới mỏi mòn vì khát! “Mạch nước” Ngài hứa ban (Gi 4:14) giờ trở nên sông nước tuôn trào! Tuy không có lời tiên tri nào cụ thể chỉ rõ về “sông nước” trong lòng người tin nhận, nhưng có một số câu Kinh Thánh tương đương với ý niệm này: Es 12:3; Es 15:1-9; Es 32:2; Es 44:3; Es 58:11; Xa 14:8. Hãy để ý rằng Xa 14:16 nói đến Lễ Lều tạm trong tương lai khi Chúa làm Vua vinh hiển.
Nước để uống là một trong những dấu hiệu về Đức Thánh Linh được dùng trong Kinh Thánh (Nước để tẩy uế là dấu hiệu về Lời Đức Chúa Trời. Gi 15:3; Eph 5:26). Muốn làm thỏa mãn cơn khát và khiến mọi vật tươi tốt, vậy Thánh Linh Đức Chúa Trời cũng có thể ban sự thoả lòng cho tâm linh con người và giúp ta sống kết quả. Tại kỳ lễ này, dân Do-thái cứ tái diễn một nghi lễ chẳng bao giờ làm thoả mãn con người. Chúa Giê-xu đã hứa ban cho họ nước sống và sự thoả lòng mãi mãi.
Lời tuyên bố và kêu gọi của Chúa đem lại kết quả ra sao? Dân chúng bất đồng nhau: một số tin Ngài và số khác muốn bắt Ngài. Ngài là “người nhân lành” hay “người phỉnh dỗ dân chúng” (Gi 7:12)? Ngài là “Đấng Christ” chăng? (Gi 7:31) hay Ngài là “đấng tiên tri” đã được báo trước? (Gi 7:40; Phuc 18:15). Nếu họ thật lòng muốn xem xét chứng cớ, họ sẽ khám phá Ngài chính là Đấng Christ Con Đức Chúa Trời. Họ chỉ xem Ngài là người Ga-li-lê (Gi 1:45-46; Gi 7:52) nhưng thật ra Ngài sinh tại Bết-lê-hem (Gi 6:42).
Những người coi đền thờ trở về cùng các thầy tế lễ với tay không. Chắc hẳn việc bắt Chúa Giê-xu chẳng có gì khó khăn đối với họ, nhưng họ đã không làm vậy. Điều gì ngăn trở họ? Họ thú nhận “chẳng hề có người nào đã nói như người này!” (Gi 7:46) (nói cách khác “Giê-xu này là người khác thường, không người bình thường nào nói được như Ngài”). Họ đã bị “bắt giữ” bởi Lời Đức Chúa Trời được phán ra từ miệng Con Đức Chúa Trời!
Một lần nữa, các nhà lãnh đạo không dám nhìn vào sự thật mà chỉ đưa ra nhận xét dựa trên thành kiến và cách xem xét sự việc hời hợt của họ. Gán tội cho người khác (và phỉ báng họ) có lẽ dễ dàng hơn lắng nghe họ trình bày sự thật! “Nếu có một số người tin Giê-xu, vậy thì sao nào? Những kẻ tầm thường này chẳng biết luật lệ gì cả! Lẽ nào có ai đó cao trọng như chúng ta lại tin ông Giê-xu ấy? Dĩ nhiên là không!” Có lẽ họ đã lý luận như vậy khi cố gắng phủ nhận lời chứng của người mù được Chúa chữa lành (Gi 9:34).
Bạn đừng ngạc nhiên khi thấy “giới trí thức” không muốn tin nhận Chúa Giê-xu hay các chức sắc trong giáo hội chối từ Ngài, Đức Chúa Trời đã giấu lẽ thật với “kẻ khôn ngoan, người sáng dạ” nhưng bày tỏ cho “những con trẻ” thuộc linh, những người khiêm cung đầu phục Ngài (Mat 11:25-27).
Khi được Đức Chúa Trời cứu vớt, Phao-lô là thầy dạy luật rất khôn ngoan, nhưng ông đã phải bị “đánh gục” trước khi nhận biết Giê-xu Christ là Con Đức Chúa Trời (đã) từ kẻ chết sống lại. Mọi bạn đọc ICôr 1:26-31 để biết lời giải thích của Phao-lô về trở ngại của việc đem những “kẻ khôn ngoan, người sáng dạ” đến với Đấng Christ.
Rất có thể các nhà lãnh đạo đã sai lính đi bắt Chúa một lần nữa, nhưng Ni-cô-đem đã can ngăn. Người này được nhắc đến 3 lần trong Phúc-âm Giăng, và mỗi lần đều được biết là người “tới cùng Đức Chúa Giê-xu trong ban đêm” (Gi 3:1-2; Gi 19:39). Có lẽ Ni-cô-đem đã suy ngẫm và học được nhiều điều kể từ buổi nói chuyện lần đầu tiên với Chúa Giê-xu, nên ông không ngại bảo vệ cho lẽ thật.
Ni-cô-đem biết chắc hội đồng tôn giáo không muốn nghe Chúa Giê-xu. Họ định tội và muốn bắt Chúa Giê-xu trước khi tra xét Ngài theo luật pháp và lẽ công bình! Khi bảo vệ lẽ thật, hẳn Ni-cô-đem đã nhớ những lời Kinh Thánh ở Cựu-ước như Xu 23:1; Phuc 1:16-17; Phuc 19:15-21.
Ni-cô-đem muốn họ xem xét điều gì về Chúa Giê-xu? Về công việc và lời phán của Ngài. Chúa Giê-xu là vị Giáo sư và là Đấng làm phép lạ, đã thu hút Ni-cô-đem đến với Ngài (Gi 3:2). Thật ra, Chúa đã bày tỏ công việc Ngài để làm chứng cho thần tính Ngài (Gi 5:32), và nhiều lần kêu gọi con người hãy chú ý đến Lời Ngài phán. Cả hai điều này hỗ trợ nhau, vì phép lạ bày tỏ sứ điệp Ngài, và sứ điệp Ngài giải thích cho ý nghĩa thuộc linh của phép lạ.
Bạn có thể nghe được giọng mỉa mai và khinh thường trong câu đáp của các bậc cầm quyền: “Ngươi cũng là tên Ga-li-lê hạ tiện và đáng ghét sao?” Họ không muốn thừa nhận lý lẽ của Ni-cô-đem khi ông đề nghị một cuộc xét xử công bằng, nhưng chỉ phản ứng bằng cách nhạo báng ông. Đây là “mánh khoé” tranh luận cũ rích: “Tấn công người nói khi không có lẽ nào bẻ bác lại”.
Họ thách thức Ni-cô-đem tra xem những lời tiên tri để xem có lời Kinh Thánh nào cho biết Đấng trị vì sẽ xuất thân từ Ga-li-lê. Dĩ nhiên, tiên tri Giô-na là người Ga-li-lê, và Chúa Giê-xu từng phán rằng Giô-na là hình ảnh của chính Ngài trong sự chết, chôn và sống lại (Mat 12:38-41). Có lẽ Ni-cô-đem đọc sách Es 9:1,2 (Mat 4:12-16) và bắt đầu tìm ra những lời tiên tri quan trọng nói về Đấng Mê-si-a trong Cựu-ước. Nếu vậy, ông đã tìm chắc rằng Chúa Giê-xu Na-xa-rét chính là Con Đức Chúa Trời.
Chúng ta cảm thấy nuối tiếc cho những người trong đoạn Kinh Thánh này – những con người đáp ứng với Chúa Giê-xu một cách sai lầm. Các em Chúa đối cùng Ngài bằng sự vô tín, kẻ khác thì tranh cãi, kết quả là một sự bất đồng chia rẽ. Nếu họ muốn nhận chân lý và hành động bằng sự vâng phục đơn sơ, hẳn họ sẽ quỳ nơi chân Chúa để xưng Ngài là Đấng Mê-si-a Con Đức Chúa Trời.
Ngày nay, con người cũng đang phạm sai lầm ngớ ngẩn như vậy khi đồng tình với những thành kiến và cách đánh giá hời hợt của người xưa, để rồi mù loà với chân lý.
Đừng để điều ấy xảy đến cho bạn!
8. NHỮNG TƯƠNG PHẢN VÀ MÂU THUẪN (Gi 8:1-59)
Câu chuyện về người đàn bà tà dâm phải chăng là một phần thuộc Kinh Thánh. Nếu vậy, câu chuyện này nằm ở đâu trong Phúc-Âm? Một số bản dịch xưa không có đoạn chép Gi 7:53-8:11. Nếu có, câu chuyện này thường không được chép trong Phúc-âm Giăng. Đa số các học giả Kinh Thánh đều cho rằng đoạn Kinh Thánh này là một phần Kinh Thánh được hà hơi (như Tiến sĩ F.F.Bruce nói rằng “nó là một phần của tài liệu Phúc-Âm cho dù nằm ở sách nào.”
Đối với đa số chúng ta, câu chuyện thích hợp ở đoạn này! Thật ra, diễn tiến của cả đoạn này khởi phát từ sự kiện gây chú ý trong đền thờ. Chúa Giê-xu tuyên bố Ngài là sự sáng của thế gian (Gi 8:12), và Lời Ngài phán về sự xét đoán theo xác thịt cùng sự xét đoán theo chân lý, hẳn là những lời hợp lý ở đoạn này (Gi 8:15,16). Câu “chết trong tội lỗi mình” (Gi 8:21,24). được nhắc lại rõ ràng có liên quan đến sự xét đoán người đàn bà và dân sự đoạn Kinh Thánh kết thúc với việc họ tìm cách ném đá Chúa Giê-xu cho thấy một sự tương đương hoàn hảo với phần mở đầu câu chuyện.
Nếu bỏ đi Gi 7:52-8:12, đoạn Kinh Thánh sẽ bị thay đổi một cách đột ngột không có phần chuyển tiếp.
Một lần nữa Chúa biết Ngài có mâu thuẫn với các chức sắc đền thờ. Lần này, họ đặt một “cái bẫy” hòng có đủ chứng cớ bắt Ngài và giết đi. Tuy nhiên, âm mưu ấy bị thất bại, kéo theo một cuộc tranh luận gay gắt. Trong đoạn này chúng ta thấy có nhiều điểm tương phản bày tỏ lòng nhân từ của Đấng Christ và sự độc ác của loài người.
1. Ân Điển và Luật Pháp (Gi 8:1-11)
Lễ Lều Tạm đã kết thúc, nhưng Chúa Giê-xu lợi dụng cơ hội này để giảng đạo cho mọi người từ xa đến dự lễ đền thờ. Suốt kỳ lễ, mọi người đều biết rằng Ngài không những chỉ dự lễ mà còn công khai dạy dỗ trong đền thờ (Lu 21:37). Ngài dạy dỗ trong nơi nhóm lại của phụ nữ tại nơi kho (Gi 8:20). Các thầy thông giáo cùng người Pha-ri-si biết nơi Ngài giảng dạy, nên cùng nhau bày một âm mưu bắt Chúa.
Có lẽ đôi gian phu dâm phụ không bị bắt “quả tang” khi phạm tội, nên chúng ta không biết người đàn ông (chưa từng bị truy tố) này có nằm trong âm mưu của các chức sắc hay không. Theo luật pháp, cả hai kẻ phạm tội đều phải bị ném đá (Le 20:10; Phuc 22:22) chớ không riêng gì người đàn bà này. Thật khó tin rằng người đàn ông kia chạy thoát. Các thầy thông giáo và người Pha-ri-si đã xử lý vấn đề thật tàn nhẫn, thậm chí có thể cản trở buổi dạy dỗ của Chúa để đẩy người đàn bà vào giữa đám đông.
Dĩ nhiên, các nhà lãnh đạo Do-thái muốn đưa Chúa Giê-xu vào thế “tiến thoái lưỡng nan”. Nếu Ngài phán “vâng, người đàn bà này phải bị ném đá vậy điều gì sẽ xảy đến cho danh Ngài mà người ta từng biết là bạn của người thu thuế và kẻ có tội?”
Dân chúng hẳn sẽ bỏ Ngài không bao giờ tiếp nhận sứ điệp tốt lành về sự tha thứ của Ngài nữa. Nhưng nếu Ngài phán ”không nên ném đá bà ta!” vậy Ngài đã công khai phạm luật và sẽ bị bắt. Hơn một lần, các nhà lãnh đạo này đã gài Chúa vào thế chống lại Luật Môi-se, và giờ đây dường như họ đã thách thức Ngài ra mặt (Gi 5:39-47; Gi 6:32; Gi 7:40).
Thay vì xét xử người đàn bà, Chúa Giê-xu đã xét xử các nhà lãnh đạo. Có lẽ Ngài rất phẫn nộ về cách họ xét xử người đàn bà. Ngài cũng biết rằng những kẽ giả hình này chỉ kết tội kẻ khác chớ không thấy tội lỗi chính mình. Chúng ta không rõ Ngài viết gì trên nền đất của đền thờ. Phải chăng Ngài chỉ muốn nhắc họ nhớ lại 10 điều răn vốn được viết ra “bởi ngón tay Đức Chúa Trời” (Xu 31:18) và Ngài là Đức Chúa Trời? Hay Ngài muốn nhắc họ nhớ lời khuyến cáo ở Gie 17:13?
Theo luật pháp Do-thái, những kẻ truy tố phải ném đá tội nhân trước hết (Phuc 17:7). Chúa Giê-xu không yêu cầu những người vô tội đó xét xử người đàn bà vì chỉ có Ngài là con người vô tội hoàn toàn. Ngày nay nếu các quan án phải là người hoàn hảo, có lẽ những băng ghế trong tòa án sẽ trống rỗng! Ngài đề cập đến tội lỗi của người đàn bà, một tội lỗi mà người ta có thể phạm trong tư tưởng cũng như trong thể xác (Mat 5:27-30).
Bị lương tâm kết án, những kẻ tố cáo lặng lẽ rời khỏi hiện trường, chỉ còn lại Chúa Giê-xu và người đàn bà. Chúa tha thứ cho bà và khuyên bà đừng phạm tội nữa (Gi 5:14).
Chúng ta đừng hiểu lầm rằng Chúa Giê-xu “dễ dãi đối với tội lỗi” hoặc Ngài đã mâu thuẫn với luật pháp. Để Chúa có thể tha thứ cho người đàn bà này, Ngài sẽ phải chết thay tội lỗi bà. Sự tha thứ có tính vô điều kiện nhưng “cái giá” của nó không phải rẻ! Hơn thế, Chúa đã làm trọn luật pháp hầu cho không ai có thể lên án Ngài rằng Ngài đi ngược lại những lời dạy dỗ hay làm mất giá trị của sự dạy dỗ ấy. Khi áp dụng luật pháp đối với người đàn bà chớ không cho bản thân mình, các lãnh đạo Do-thái đã phạm cả quy tắc và tinh thần của luật pháp. Vậy mà họ cứ nghĩ rằng mình đang bảo vệ Môi-se!
• “Luật pháp cho người ta biết tội lỗi” (Rô 3:20).
Chúng ta phải bị luật pháp kết tội trước khi có thể được tha thứ bởi ân điển của Đức Chúa Trời. Luật pháp và ân điển không đối nghịch nhau nhưng hỗ trợ cho nhau. Không ai được cứu rỗi bởi tuân theo luật pháp nhưng cũng không ai được cứu bởi ân điển mà trước hết không bị luật pháp kết án. Phải có sự kết tội trước khi có sự thay đổi.
Sự tha thứ bởi ân điển của Đấng Christ không phải là cớ để con người phạm tội. Lời Chúa phán “Hãy đi, đừng phạm tội nữa!”, “Nhưng Chúa có lòng tha thứ cho, để người ta kính sợ Chúa” (Thi 130:4). Chắc hẳn từng trải về sự tha thứ bởi ân điển sẽ khích lệ tội nhân ăn năn, sống một đời sống vâng phục và thánh khiết để quy vinh hiển cho Đức Chúa Trời.
2. Sự sáng và sự tối tăm (Gi 8:12-20)
Lời Chúa phán “Ta là...” chắc hẳn rất thích hợp trong đoạn 8 này. Có lẽ mặt trời vừa mọc lên (Gi 8:2), nên Chúa so sánh Ngài với mặt trời rạng rỡ. Như vậy một lần nữa Ngài tuyên bố chính Ngài là Đức Chúa Trời, vì đối với dân Do-thái, mặt trời là dấu hiệu chỉ về Giê-hô-va Đức Chúa Trời (Thi 84:11; Ma 4:2). Trong thái dương hệ của chúng ta, chỉ có một mặt trời, là trung tâm và nguồn sự sống.
Vậy, cũng chỉ có một Đức Chúa Trời, Đấng trung tâm của mọi sự và mọi nguồn sự sống (Gi 1:4). “Đức Chúa Trời là sự sáng” (IGi 1:5). Nơi đâu có sự sáng chiếu soi, tội lỗi con người sẽ bị bày tỏ ra (Eph 5:8-14).
Lời phán “Ta là...” cũng liên quan đến lễ Lều Tạm. Suốt kỳ lễ những ngọn nến lớn được thắp sáng trong đền thờ vào đêm nhắc dân sự nhớ đến “trụ lửa’ dẫn đường dân Y-sơ-ra-ên đi trong đồng vắng. Thật ra Giăng đã kết hợp ba “hình ảnh về đồng vắng”: ma-na (Gi 6:1-71) nước từ vầng đá (Gi 7:1-53) và trụ lửa (Gi 8:1-59).
“Theo”Chúa có nghĩa là tin nơi Ngài và nhờ cậy Ngài người tin Ngài sẽ bước đi trong “sự sống và sự sáng”. Những kẻ không được cứu là người đi trong tối tăm vì họ ưa thích bóng tối. Một trong những chủ đề chính của Phúc-âm Giăng bày tỏ: sự sáng thuộc linh đang chiếu soi, nhưng con người không nhận biết được, vì vậy họ chối từ sự sáng (Gi 1:4-5).
Không phải mọi nhà lãnh đạo Do-thái đều bỏ đi chắc chắn một số khác đã xuất hiện khi người đàn bà rời khỏi. Như thường lệ họ tranh cãi với Chúa Giê-xu. Lần này, họ cáo Ngài về việc Ngài tự làm chứng cho bản thân bằng cách cho rằng mình là sự sáng của thế gian vì toà án Do-thái không chấp nhận một người làm chứng cho bản thân.
Nhưng, sự sáng tự nó bày tỏ ra! Những kẻ nào không nhìn thấy ánh sáng, đều là kẻ mù lòa!
Tôi nhớ lại lần đầu tiên khi đi máy bay vào ban đêm. Tôi bị mê mẩn bởi dải đèn màu lấp lánh trong các thành phố phía dưới. Khi máy bay rời New York đi trong đêm, tôi ngạc nhiên vì vẫn có thể nhìn thấy những chấm sáng ấy cách xa nhiều dặm.
Tôi chợt hiểu ra vì sao trong thời chiến tranh người ta phải tắt đèn vì phi công địch có thể nhìn thấy điểm sáng nhỏ nhất và phát hiện ra mục tiêu. Ánh sáng tự bày tỏ chính nó, cho bạn biết sự hiện diện của nó.
Có lẽ người Pha-ri-si đã trích dẫn lời Chúa (Gi 5:31), nhưng lập tức lý lẽ họ bị Chúa bẻ bác lại. Từ được lặp lại trong phân đoạn này là “làm chứng”. Chúa cho biết lời chứng của họ không đáng tin vì sự xét đoán của họ thật sai lầm. Họ xét đoán ở hình thức bên ngoài theo cách của con người, nhưng Chúa xét đoán dựa trên sự hiểu biết về tâm linh. Cách họ xét xử người đàn bà tà dâm chứng tỏ họ không hiểu luật pháp, cũng không nhận biết tư tưởng tội lỗi của chính mình.
Vì muốn lợi dụng luật để kết tội người đàn bà, đồng thời “gài bẫy” Chúa, họ đã bị Chúa dùng luật để đối phó lại. Chúa trích dẫn một nguyên tắc ở Phuc 17:6; Phuc 19:15 cũng như Dan 35:30, cho biết việc định tội sẽ được thực hiện khi có hai người làm chứng Chúa có hai chứng cớ: Ngài làm chứng và cả Đức Chúa Trời nữa. Qua Gi 5:37-47, chúng ta thấy rằng lời chứng của Đức Chúa Trời thể hiện qua Lời Ngài.
Thật tội nghiệp cho những chuyên gia “Luật pháp này! Họ không biết Đấng Mê-si-a đang hiện diện trước mặt họ! Họ tuyên bố rằng họ hiểu biết luật pháp Đức Chúa Trời, nhưng lại không biết Đức Chúa Trời của luật pháp. Họ không hề giữ lời Ngài trong lòng (Gi 5:38) cũng không kinh nghiệm được tình yêu của Ngài (Gi 5:42). Họ không biết Cha, nên cũng không biết Con.
Chúa chưa bao giờ trả lời câu hỏi họ đặt ra “Cha của thầy ở đâu?” (c.19). Thuật ngữ “Cha” được sử dụng rất nhiều lần trong đoạn này, vì vậy Chúa Giê-xu không lẩn tránh vấn đề nhưng ngược lại Ngài giải quyết vấn đề một cách thẳng thắn. Ngài biết “cha” họ không phải là Đức Chúa Trời – nhưng là ma quỷ. Những kẻ đội lốt tôn giáo này là con cái ma quỷ!
Những âm mưu bắt Chúa Giê-xu của họ đều bị Cha trên trời ngăn trở, vì giờ Ngài phó sự sống mình chưa đến. Khi tôi tớ Đức Chúa Trời sống theo ý muốn Ngài, người ấy có thể hầu việc cách mạnh mẽ và bình an!
3. Sự sống và sự chết (Gi 8:21-30)
Chúa Giê-xu từng nói về việc Ngài sẽ bỏ họ (Gi 3:34), nhưng những người Giu-đa này chẳng hiểu gì cả. Một lần nữa, Ngài khuyến cáo họ rằng Ngài sẽ bỏ họ, họ không thể theo Ngài, vì vậy họ sẽ chết trong tội lỗi mình! Họ đã bỏ lỡ những cơ hội Đức Chúa Trời ban bởi sự tranh cãi với Ngài thay vì tin cậy Ngài. Chẳng bao lâu nữa, những cơ hội ấy sẽ chấm dứt.
Giờ đây dân Giu-đa không hiểu sự dạy dỗ của Ngài, chỉ nghĩ rằng Ngài định “tự tử”. Đối với người Do-thái, tự sát là hành động đáng khinh miệt vì họ được dạy rằng phải quý trọng sự sống. Nếu Chúa phạm tội này, Ngài sẽ bị tòa xét xử và đây sẽ là lý do để dân chúng không tin theo Ngài.
Thật ra, chính những kẻ chất vấn Ngài sắp phải đứng trước tòa phán xét! Chúa Giê-xu sẽ về cùng Cha Ngài trên trời, không ai có thể đến được nơi ấy nếu không tin nhận Đấng Christ, lý do Chúa Giê-xu và lãnh đạo Do-thái phải đi đến hai nơi khác nhau, vì nguồn gốc của họ khác Ngài: Ngài từ thiên đàng đến, nhưng họ là kẻ thuộc về đất. Chúa Giê-xu hiện diện trong thế gian này, nhưng Ngài không thuộc về thế gian (Gi 17:14-16).
• Những ai tin nhận Chúa đều là công dân thiên quốc (Phi 3:20-21; Lu 10:20).
Chúa đã dành sẵn cho họ phần thưởng trên trời. Nhưng những kẻ vô tín sẽ thuộc về thế gian, Chúa Giê-xu gọi họ là “con đời này” (Lu 16:8). Bởi không tin nhận Đấng Christ để được tha tội, họ phải gánh số phận “chết trong tội lỗi mình”. Những tín hữu sẽ “chết trong Chúa” vì đã “sống trong Chúa” (Kh 14:13), kẻ vô tín phải chết trong tội lỗi mình vì đã sống trong tội lỗi.
Thật không ngờ rằng những “chuyên gia” thuộc linh này lại có thể hỏi rằng “Thầy là ai?”. Chúa đã bày tỏ chứng cớ cho họ biết rằng Ngài là Con Đức Chúa Trời, nhưng họ cố tình chối bỏ, Lời Chúa đáp “như lời ta đã nói với các ngươi từ ban đầu” có thể được hiểu rằng “Tại sao ta phải cho các ngươi biết những điều khác hay chứng cớ khác khi các ngươi chưa thật tâm xem xét chứng cớ ta đã bày tỏ ra?”
• Chúa nhiều lần tuyên bố về thần tính Ngài (Gi 8:26).
Ngài phán rằng Ngài sẽ là Đấng xét đoán và sự xét đoán (dân Do-thái) chỉ thuộc về Đức Chúa Trời. Ngài tuyên bố mình được Đức Chúa Trời sai đến và Ngài đã nghe mọi điều Đức Chúa Trời dạy dỗ. Các chức sắc kia phản ứng ra sao trước những “lời khẳng định mạnh mẽ về thần tính của Chúa” Họ chẳng hiểu gì cả! Đức Chúa Trời bày tỏ lẽ thật Ngài cho “trẻ nhỏ” chớ không phải cho những “người khôn ngoan, kẻ sáng dạ” này! (Lu 10:21).
Giờ đây Chúa phán về sự chết của Ngài khi “bị treo lên” thập giá (Gi 3:14 Gi 12:32). Thuật ngữ “bị treo lên” có nghĩa kép là: bị treo lên trong tình trạng đóng đinh, và bị treo lên trong sự tôn quí và vinh hiển. Chúa thường ghép hai nghĩa trên lại với nhau vì qua sự đóng đinh Ngài nhìn thấy “sự vinh hiển” chớ không chỉ là “thương khó” (Gi 12:23; Gi 13:30-31; Gi 17:1). Phi-e-rơ cũng ghép hai ý nghĩa này trong thư tín đầu của ông.
Chúa Giê-xu bày tỏ Ngài cho dân Do-thái qua sự chết, chôn, sống lại và thăng thiên của Ngài. Đây là thông điệp Phi-e-rơ rao truyền vào lễ Ngũ Tuần (Công 2:1-47) không chỉ về sự chết của Chúa mà còn về sự sống lại và vinh hiển của Ngài. Một người lính La-mã chứng kiến mọi sự tại đồi Gô-gô-tha cũng phải thú nhận: “Người này quả thật là Con Đức Chúa Trời” (Mac 15:39).
Hội thánh đầu tiên đã noi gương Chúa mình (Lu 24:25-27) rao truyền về sự thương khó và vinh hiển của Đấng Christ bắt đầu từ những lời tiên tri trong Thánh Kinh Cựu-ước.
• Chúa Giê-xu đưa ra hai lời tuyên bố kỳ diệu.
Ngài không chỉ được Cha sai đến, nhưng còn được Cha luôn ở cùng vì Ngài hằng làm đẹp lòng Cha (Gi 8:29). Có lẽ, kẻ thù Chúa đã phản ứng dữ dội với lời phán này, nhưng một số người tin nơi Ngài.Chúng ta không thể biết được có phải là niềm tin thật hay không, nhưng qua Lời Chúa phán với họ cho thấy họ biết điều mình làm.
Sự cứu rỗi là vấn đề về sự sống hoặc sự chết. Những ai sống trong tội lỗi và chối bỏ Đấng Christ phải chết trong tội lỗi mình không có sự thay đổi nào khác! Chúng ta hoặc tiếp nhận sự cứu rỗi trong ân điển, hoặc chịu sự kết án dưới Luật pháp Đức Chúa Trời hoặc bước đi trong sự sáng để được sự sống đời đời, hoặc bước đi trong sự tối tăm và chết đời đời!
4. Tự do và tôi mọi (Gi 8:31-47)
Chúa khuyên những người tin Ngài (Gi 8:30) hãy cứ ở trong Lời Ngài để được sự cứu rỗi. Nếu chúng ta sống theo Lời Chúa, sự hiểu biết thuộc linh của chúng ta sẽ tăng trưởng. Khi ấy, chúng ta sẽ được tự do không bị tội lỗi ràng buộc. Sự sống đem đến sự hiểu biết, và sự hiểu biết dẫn đến sự tự do.
Dường như đại danh từ “các ngươi” (Gi 8:32) chỉ về những người Giu-đa tin theo Đạo, vì họ không tranh cãi với Chúa. Nếu câu Gi 8:37 cũng được sử dụng từ “các ngươi”, có lẽ được nói về các lãnh đạo Do-thái vô tín, chống đối Chúa suốt cuộc giảng luận (Gi 8:13,19,22,25). Cũng vẫn như trước đây, họ không hiểu sứ điệp của Ngài.Chúa muốn nói về sự tự do thuộc linh, không bị ràng buộc bởi tội lỗi, nhưng họ chỉ nghĩ về sự tự do theo quan niệm chính trị!
Khi tự xưng là con cháu Áp-ra-ham chưa hề làm tôi mọi cho ai, lời tuyên bố của các nhà lãnh đạo chắc hẳn sai hoàn toàn, mâu thuẫn với lịch sử được chép trong Thánh Kinh Cựu-ước. Dân Do-thái đã bị 7 cường quốc thống trị (được chép trong sách Các quan xét), 2 chi phái phía Nam bị bắt làm nô lệ ở Ba-by-lôn 70 năm, 10 chi phái phía Bắc cũng bị quân A-si-ri bắt đi. Ngay cả giây phút này, Chúa Giê-xu cũng đang ở dưới gót sắt Rô-ma! Đối với những kẻ kiêu ngạo trong lớp áo tôn giáo này, thật khó lòng thừa nhận những thất bại và nhu cầu của mình biết bao!
Chúa Giê-xu giải thích rằng sự khác nhau giữa tự do về thuộc linh và tình trạng tôi mọi chính ở chỗ: một người là con và người kia là tôi mọi. Tôi mọi có thể sống trong nhà nhưng không thuộc về gia đình đó, người ấy không có một tương lai bảo đảm (Có lẽ lúc này Chúa nhớ đến I-sác và Ích-ma-ên, Sa 21:1-21). “Ai phạm tội lỗi là tôi mọi của tội lỗi” (Gi 8:34). Các lãnh đạo tôn giáo không chỉ chết trong tội lỗi họ, nhưng ngay lúc này họ đang sống trong ách của tội lỗi!
Vậy tôi mọi của tội lỗi làm sao để được tự do? Chỉ nhờ vậy nơi Con. Ngài buông tha tôi mọi bằng cách nào? Bởi quyền năng của Lời Ngài. Bạn hãy chú ý trọng tâm của Lời Chúa phán ở Gi 8:38-47 Ngài cho biết “Lẽ thật sẽ buông tha các ngươi” (Gi 8:32). Nhưng các lãnh đạo không muốn “dành chỗ” cho Lời Chúa trong lòng họ.
Ở phần còn lại của phân đoạn này, bạn sẽ thấy cuộc tranh luận tập trung quanh thuật ngữ “Cha”. Chúa Giê-xu nhận biết Cha Ngài trên trời, và Ngài cũng biết những kẻ giả hình này đến từ cha họ nơi địa ngục, đó là Sa-tan. Dĩ nhiên, dân Do-thái tự nhận họ là con cái Áp-ra-ham (Lu 3:8) nhưng Chúa Giê-xu phân biệt rõ ràng giữa “dòng dõi Áp-ra-ham” (con cháu về mặt thể xác) và “con cháu Áp-ra-ham” (là con cháu về mặt thuộc linh – bởi đức tin sinh ra – Ga 3:6-14)
Các lãnh đạo Do-thái tuyên bố họ thuộc dòng dõi Áp-ra-ham, nhưng chẳng giống Áp-ra-ham chút nào. Họ lúc nào cũng muốn giết Chúa Giê-xu còn Áp-ra-ham là người “bạn” của Đức Chúa Trời, được tương giao với Ngài trong tình yêu (Es 4:8). Ông lắng nghe chân lý từ Đức Chúa Trời và vâng theo, còn những lãnh đạo Do-thái này lại chối bỏ lẽ thật.
Bản tính được quyết định bởi dòng dõi sinh ra, dòng dõi được quyết định bởi người cha. Nếu Đức Chúa Trời là Cha bạn, vậy bạn sẽ dự phần bản tính Ngài (IPhi 1:1-4), nhưng nếu Sa-tan là cha bạn, vậy bạn sẽ mang bản chất tội lỗi của nó. Chúa không nói rằng mọi tội nhân là con cái ma quỷ, dù họ đều là “con của sự thạnh nộ” (Eph 2:1-3).
Qua ẩn dụ Cỏ lùng (Mat 13:24-32,36-43), Chúa phán rằng người Pha-ri-si và những kẻ tin theo giả dối là con cái ma quỷ. Sa-tan là kẻ mạo danh thiên sứ sáng láng (IICôr 11:13-15) nên nó cũng truyền cho con cái nó sự công bình giả dối hầu những kẻ đó chẳng bao giờ bước đến cổng thiên đàng được (Rô 10:1-4).
Là con cái ma quỷ, tính cách các lãnh đạo Do-thái thế nào? Họ chối bỏ chân lý (Gi 8:40) và muốn giết Chúa Giê-xu vì Ngài nói ra chân lý. Họ không yêu mến Đức Chúa Trời (Gi 8:42), cũng không hiểu lời dạy dỗ của Chúa Giê-xu, (Gi 8:43,47). Con cái của Sa-tan có thể rất “sành” về những lễ nghi thờ phượng, nhưng không hiểu gì về Lời Đức Chúa Trời.
• Sa-tan là kẻ nói dối và kẻ giết người.
Nó từng nói với tổ phụ đầu tiên của chúng ta rằng: “Đức Chúa Trời há phán như vậy sao? Và đưa họ vào cõi chết. Ca-in cũng là con cái của ma quỷ” (IGi 3:12) vì là kẻ nói dối và giết người. Ca-in giết em mình là A-bên và nói dối về điều đó (Sa 4:1-24). Có gì đáng ngạc nhiên khi những chức sắc đền thờ này làm chứng dối về Chúa Giê-xu, tìm kiếm chứng cớ giả dối để cho người giết Ngài?
Ách tôi mọi khủng khiếp nhất là điều mà chính kẻ bị giam cầm không nhận biết. Người ấy nghĩ mình tự do, nhưng thật sự đang bị nô lệ. Người Pha-ri-si và các lãnh đạo Do-thái cho rằng họ tự do, nhưng thật ra họ đang làm tôi mọi về mặt thuộc linh trong xiềng xích của tội lỗi và Sa-tan, Họ không muốn đối diện với chân lý, nhưng chỉ có lẽ thật mới có thể buông tha họ mà thôi.
5. Tôn kính và bất kính (Gi 8:48-59)
Các nhà lãnh đạo không có cách nào bẻ bác được Lời Chúa nên tấn công vào tư cách Ngài. Một số học viên Kinh Thánh cho rằng lời nói của các lãnh đạo trong Gi 8:41 “Chúng tôi chẳng phải là con ngoại tình” là lời gièm pha về sự sinh ra và tính cách của Chúa Giê-xu. Thật ra bà Ma-ri đã mang thai trước khi kết hôn với Giô-sép. Những lời công kích ở câu Gi 8:48 mới thật sự là lời vu cáo. Đối với người Do-thái, bị gọi là người “Sa-ma-ri” là sự sỉ nhục nặng nề nhất, đã vậy còn bị gọi là kẻ bị “quỷ ám” càng nhục nhã hơn.
Bạn hãy chú ý sẽ thấy Chúa chẳng quan tâm đến lời gièm pha về chủng tộc (có lẽ khi họ gọi Ngài là người Sa-ma-ri họ muốn gán cho Ngài là kẻ tà giáo). Dù họ bất kính với Ngài, nhưng Ngài vẫn tôn kính Cha trong mọi sự. Ngài từng giải thích rõ ràng không thể có tình trạng tôn kính Cha mà không tôn kính Con (Gi 5:23). Họ tìm kiếm vinh hiển cho bản thân, nhưng Chúa chỉ tìm kiếm vinh hiển của Đức Chúa Trời mà thôi (Gi 5:41-44). Niềm tin chỉ dựa vào hình thức mà không hề có Đấng Christ, đó chỉ là “hội của những người tâng bốc lẫn nhau” bởi con người chỉ muốn tôn vinh bản thân!
Chúa Giê-xu đã khuyến cáo họ rằng họ sẽ chết trong tội lỗi mình vì sự vô tín. Giờ đây, Ngài kêu gọi họ tin nơi Lời Ngài để “chẳng thấy sự chết bao giờ” (Gi 8:51). Ngài đã nói điều này khi giảng dạy trong nhà hội (Gi 6:39-40,44,54). Một lần nữa các nhà lãnh đạo không có cái nhìn sâu sắc về thuộc linh để có thể hiểu ý Chúa.
Áp-ra-ham đã chết dù là một người tin kính, và các tiên tri cũng chết! Kiểu lý luận này chỉ càng khiến họ nghĩ rằng Chúa bị “quỷ ám”! (Gi 7:20).
Khi xưng mình là Chúa của sự sống và sự chết Chúa muốn khẳng định Ngài là Đức Chúa Trời (Gi 5:21-29). Ngài không tìm vinh hiển cho mình, nhưng Cha trên trời làm vinh hiển Con Ngài. Thật sự, Áp-ra-ham (người được họ xưng là cha) đã nhìn thấy “ngày của Chúa” và nức lòng mừng rỡ! Thay vì vui mừng, người ta lại chống nghịch và muốn giết Ngài.
Thế nào gọi là: Áp-ra-ham đã nhìn thấy “ngày của Chúa” (tức đời sống và chức vụ Ngài trên đất)? Đó là cách ông nhìn thấy thành Giê-ru-sa-lem trong tương lai bằng đức tin (He 11:10,13-16).
Đức Chúa Trời không ban cho Áp-ra-ham khải tượng đặc biệt nào về đời sống và chức vụ của Chúa Giê-xu nhưng ban cho ông một khả năng nhận thức về thuộc linh để “nhìn thấy” những sự kiện trong tương lai. Chắc hẳn ông đã thấy sự giáng sinh của Đấng Christ qua sự ra đời kỳ diệu của con trai ông, là I-sác. Hẳn ông cũng “nhìn thấy” đồi Gô-gô-tha khi dâng I-sác cho Đức Chúa Trời (Sa 22:1-24).
Qua chức vụ tế lễ của Mên-chi-xê-đéc (Sa 14:17-24), Áp-ra-ham có thể nhìn thấy chức tế lễ thánh khiết của Đấng Christ. Qua tiệc cưới của I-sác, Áp-ra-ham có thể nhìn thấy hình ảnh về Tiệc Cưới Chiên Con.
Lời khẳng định của Chúa ở Gi 8:58 có thể hiểu “Ta là Đấng hiện hữu trước khi Áp-ra-ham ra đời”. Một lần nữa, Ngài tuyên bố về ngôi vị là Con Đức Chúa Trời, các nhà lãnh đạo đã nghe Ngài nói điều đó nhiều lần. Ngài đã xem mình ngang hàng với Đức Chúa Trời (Gi 5:18) và đây là tội lộng ngôn, đáng bị xử chết! (Le 24:16). Chúa Giê-xu được sự bảo vệ của Đức Chúa Trời, nên Ngài thản nhiên bỏ đi, vì “giờ Ngài chưa đến”. Thật chúng ta phải kính phục sự dạn dĩ của Chúa khi Ngài bày tỏ chân lý và mời gọi những kẻ mộ đạo mù quáng tin nhận Ngài để được tự do.
Những người khó chinh phục nhất cho Đấng Christ là những người không nhận biết nhu cầu của mình. Họ đang ở dưới sự kết án của Đức Chúa Trời, vậy mà vẫn cứ cậy nơi lễ nghi tôn giáo để mong được cứu. Họ đang bước đi trong sự tối tăm chớ không phải ánh sáng của sự sống. Họ đang “sống mà như đã chết” vì ách của tội lỗi, không có sự tôn kính Cha và Con dù thực hiện những lễ nghi bên ngoài. Đây là những con người góp phần đóng đinh Chúa Giê-xu, nên Ngài gọi họ là con cái của ma quỷ.
Còn bạn là con cái của ai? Phải chăng Cha bạn là Đức Chúa Trời vì bạn đã tiếp nhận Chúa Giê-xu Christ vào đời sống? (Gi 1:12-13) Hay Sa-tan là cha bạn vì bạn cậy nơi một sự công bình giả dối, sự công bình bởi việc làm chớ không phải sự công bình bởi đức tin nơi Chúa Giê-xu?
Nếu Đức Chúa Trời là Cha bạn, vậy thiên đàng là nhà bạn. Nếu Ngài không phải là Cha bạn, vậy địa ngục sẽ là số phận dành cho bạn.
Đây thật sự là vấn đề về sự sống và sự chết!
9. SỰ THÁCH THỨC CỦA NGƯỜI MÙ (Gi 9:1-41)
Chúa chúng ta đã thực hiện nhiều phép lạ để đáp ứng nhu cầu con người. Mặt khác, Ngài cũng sử dụng những phép lạ ấy làm “bệ phóng” rao truyền sứ điệp về chân lý thuộc linh.
Sau hết, những phép lạ của Ngài chính là những “uỷ nhiệm thư” đáng tin cậy chứng minh Ngài thật sự là Đấng Mê-si-a.
“Kẻ mù được thấy” là một trong những phép lạ của Ngài thực hiện (Mat 11:5) và chúng ta sẽ thấy phép lạ ấy trong đoạn này. Chúa dùng phép lạ này làm cơ sở cho bài giảng ngắn về sự mù loà thuộc linh (Gi 9:39-41) và bài giảng về người chăn chiên thật hoặc giả (Gi 10:1-18).
Người chúng ta gặp ở đoạn Kinh Thánh này là người bị mù thuở mới sinh. Anh ta chưa bao giờ được ngắm xem vẻ đẹp sáng tạo của Đức Chúa Trời hay nhìn thấy gương mặt những người thân yêu của mình. Khi Chúa đến mọi việc thay đổi: chàng thanh niên được sáng mắt. Dầu vậy, phép lạ kỳ diệu nhất không phải là việc mở mắt người mù, nhưng là việc Chúa mở tấm lòng của anh để đến với Đấng Christ.
Bằng mọi giá, anh phải xưng nhận Chúa Giê-xu là Con Đức Chúa Trời và anh cũng muốn làm như vậy. Cách dễ nhất để có thể hiểu sứ điệp của đoạn này, đó là chúng ta nên theo dõi từng diễn biến trong sự hiểu biết của người thanh niên này về Chúa Giê-xu.
1. “Người tên gọi là Giê-xu” (Gi 9:1-12)
Vào thời ấy, việc duy nhất mà một người bị mù có thể làm được, đó là ăn xin và đây cũng là điều người mù này làm khi Chúa Giê-xu đi qua (Gi 9:8). Có lẽ ở đó có nhiều người mù mong được chữa lành nhưng Chúa chỉ chọn người ấy (Lu 4:25-27). Rõ ràng người này và cha mẹ anh là người được mọi người xung quanh biết đến. Chúa chữa lành người mù ngay trong ngày Sa-bát (Gi 9:14), vì vậy một lần nữa Ngài công khai khiêu khích các nhà lãnh đạo tôn giáo (Gi 5:9).
bottom of page